Định nghĩa này gây tranh cải. Ý muốn thiên hình vạn trạng. Ý muốn có thể bị quyết định bởi hoàn cảnh. Ý muốn còn tùy cá nhân - có người «được voi, đòi tiên» trong khi ấy, có người khác âm thầm cam chịu số phận -. Mặt khác, thực hiện được hết những ý muốn của mình cũng là một tình huống vô cùng hiếm hoi. Nếu ai đó chẳng hạn, mong được lên ... cung trăng - tức là có những ý muốn vô lý - , không đi thăm chị Hằng được, người đó sẽ không hạnh phúc ?
- Phật giáo và Thiên chúa giáo đều bàn đến hạnh phúc và đều đưa ra những giải pháp chỉ đường để đi đến hạnh phúc. Đó là những vấn đề về tín ngưỡng, tâm linh, ngoài phạm vi của bài này.
- Cụ thể hơn, khi các nhu cầu đều được thỏa mãn là hạnh phúc?
Các nhu cầu này được chia ra nhiều loại: nhu cầu vật chất đến nhu cầu tình cảm, xã hội và trí tụê. Con người cần được ăn đủ no, mặc đủ ấm, có gia đình ôm ấp, xã hội trọng nể và được tự do suy nghĩ, học hành. Với tháp Maslow, ta biết được hệ thống các nhu cầu, bắt đầu bằng những nhu cầu căn bản nhất (ăn uống,nhu cầu sinh lý) tới những nhu cầu trừu tượng nhất (được kính nể hay được thể hiện bản thân).
Nhưng ở các nước giàu, có nhiều người được đầy đủ như thế vẫn mắc bệnh trầm cảm. Họ không hạnh phúc.
- Các nhà tâm thần học thì bảo người hạnh phúc là người không có, ít nhất là ở một thời điểm nào đó, bất hạnh và khổ sở. Một định nghĩa đi từ loại trừ.
Những bác sĩ này không dùng chữ hạnh phúc cho suốt một đời người như Kant định nghĩa. Trạng thái con người có lúc này lúc khác.
Mà thế nào là bất hạnh và khổ sở ?
Mỗi một trong chúng ta đều đã trải nghiệm những bất hạnh và khổ sở vì lạnh, vì đói, vì xa cách người thân, vì bị xem rẻ, vì bị áp chế, vì nghèo, vì tuổi cao sức yếu, vì là nạn nhân của bạo lực, vì cô đơn, ...
Các bác sĩ là những nhân chứng của nhiều bất hạnh và khổ sở. Đau đớn thể xác, bị thương tổn tinh thần là hai nhóm bất hạnh lớn nhất mà ta thấy được ở các bệnh viện. Ngoài ra, nghèo đói, bị chà đạp trong cuộc sống, bất ổn cho ngày mai , ...là những bất hạnh khác. Đời sống đầy khổ sở !
Về vấn đề khổ sở có thể xem thêm ở đây :http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song-quanh-ta46/su-dau-kho-va-xa-hoi-hoc-lam-sang-%E2%80%93-tu-tay-sang-ta
Trong một chừng mực nào đó, định nghĩa tâm thần học cũng dựa trên sự thỏa mản các nhu cầu. Nhưng tâm thần học nhấn mạnh vai trò của cá nhân trong sự cảm nhận và sự quyết định về những nhu cầu hay sự thỏa mản các nhu cầu. Hạnh phúc không là sự thỏa mản một cách máy móc các nhu cầu.
Cụ thể và cho vĩ mô, gần đây, nghiên cứu của hai «đại gia» trong lĩnh vực truyền thông (Đài truyền hình và một tờ báo) ở Bỉ cho thấy là người Bỉ vẫn bằng lòng – nghĩa là từ gần 5 năm nay hiện tượng không thay đổi bao nhiêu – với hạnh phúc của mình: gần 80% tuyên bố là họ sống hạnh phúc. Đối với người Bỉ, theo nghiên cứu này, ba cấu thành quan trọng nhất để được hạnh phúc là, theo thứ tự, sức khoẻ, gia đình và có phương tiện để giữ mức sống.
Đi vào chi tiết thì các vấn đề như giáo dục cho con cái, thời gian để sống với gia đình và có mức lương hưu, sau này, chấp nhận được là những yếu tố cần cho hạnh phúc của họ.
Xa hơn, người Bỉ cũng quan tâm đến vấn đề bảo vệ dân chủ và bảo vệ môi trường như hai điều kiện cần cho hạnh phúc của họ.
Cuối cùng, gần 10 % người trong nghiên cứu cảm thấy bất an trước tương lai (1).
Trong tổng thể, dù 80% dân được hỏi tự cho là hạnh phúc, khái niệm này cần được mổ xẻ phân tích.
xxx
Vấn đề ngữ vựng quan trọng: khái niệm hạnh phúc khác với niềm vui, thích thú hoặc sự thoải mái. Hạnh phúc cũng không đồng nghĩa với giá trị sống.
Khó khăn lớn nhất, trong khoa học, về phương pháp, là làm sao cân đo hạnh phúc .
Độ thoải mái, giá trị sống và hạnh phúc ?
INSEE (Institut National des Statistiques et des Etudes Economiques – Viện quốc gia thống kê và nghiên cứu kinh tế - Pháp) tìm đủ mọi cách để đo lường cảm nhận thoải mái của dân tình và giá trị sống.
Họ cốt ý làm sao đo được giá trị sống và cảm nhận thoải mái để từ hai kết quả này có thề suy ra một cách khách quan nhất độ hạnh phúc của dân tình,
Dĩ nhiên các câu trả lời cho các nghiên cứu về độ thoải mái hay giá trị sống đầy tính chủ quan. Cảm nhận là ý kiến của riêng một cá nhân vào một thời điểm nào đó.
Cảm nhận thoải máicó thể hiểu như là mức hài lòng về cuộc sống, vào một thời điểm nhất định. Mức hài lòng này được định bởi các câu trả lời, theo thang đo ý kiến thái độ, của những người được khảo sát.
Để đo cảm nhận thoải mái của cá nhân, các điều tra viên thường đặt các câu hỏi như:
Chung chung, ông/bà
. rất bằng lòng
. khá bằng lòng
. không bằng lòng lắm
. hoàn toàn không bằng lòng
với cuộc sống hiện tại của mình ?
Kết quả cho thấy, cho toàn thể những người trong nghiên cứu, sự bằng lòng với cuộc sống của mình vơi xuống khi đối tượng có khoảng 25 tuổi và tiếp tục xuống thấp nhất ở độ tuổi 40. Trái lại, những người ngoài lục tuần và những người trẻ dưới 25 tuổi là những người hài lòng nhất về cuộc sống của họ (2).
INSEE còn đi vào chi tiết, bằng những câu hỏi mở để xem dân tình cảm thấy thoải mái ở chỗ nào hay vì sao họ không cảm thấy thoải mái. Những dữ kiện thu được cho các câu hỏi mở này là những dữ kiện định phẩm, vô cùng quí giá nhưng đòi hỏi thời gian để khai thác, so sánh và diễn dịch.
Kết quả ta có được chỉ số BES.
Chỉ số BES ? Bien Etre Subjectif Chỉ số cảm nhận thoải mái chủ quan.
Không chỉ có INSEE – xin nhắc lại, đó là cơ quan thống kê Pháp – mới đo chỉ số cảm nhận thoải mái chủ quan. Nhiều nghiên cứu ở nhiều nước khác cũng nghiên cứu chỉ số BES này từ hơn hai thập kỷ nay.
Các nhà kinh tế - tâm lý học vẫn thường cho rằng dân tình cảm thấy thoải mái hơn khi mức lợi tức của họ tăng lên. Thế nhưng những nghiên cứu theo dỏi trong nhiều năm cho thấy là khi lợi tức tăng thì nhu cầu và đòi hỏi cũng tăng theo. Do đó, thất vọng cũng nhiều hơn nên không hẳn là chỉ số cảm nhận thoải mái sẽ cao hơn.
Nhà kinh tế Mỹ Richard Easterlin (Đại học de California) cho thấy là trong đời người, các biến cố tài chính không làm thay đổi cảm nhận BES. Mà chính các sự kiện liên quan đến sức khỏe, gia đình và việc làm mới thực sự làm tăng hay giảm cảm nhận thoải mái trong đời sống.
Vì thế, để làm tăng cảm nhận BES, các nhà quản lý vĩ mô cần chú ý thế nào để lợi tức công nhân tăng thêm, đồng thời lo cho sức khoẻ của họ và bảo vệ đời sống gia đình họ. Sau đó, cũng cần lo cho khả năng tiêu thụ hàng ngày của họ, trong đó có tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ về văn hóa - thiếu văn hóa, con người ít thoải mái !- (3).
Khái niệm giá trị sống cụ thể hơn và dễ đong đo hơn.
Đến bây giờ, một số khảo cứu cho biết là đồ thị của hạnh phúc không trùng hợp với đồ thị của lợi tức. Nói cách khác, người giàu không hạnh phúc hơn người nghèo.
Như thế, hạnh phúc tùy thuộc vào yếu tố nào ?
Các cơ quan thống kê hay dùng các tiêu chỉ dưới đây để đánh giá giá trị sống
. điều kiện vật chất
. điều kiện sức khỏe
. trình độ giáo dục đã đạt được
. cuộc sống thường nhật trong đó có tiện nghi nhà ở và việc làm
. khả năng và sự tham gia vào đời sống xã hội và chính trị
. điều kiện an ninh cho cá nhân và ổn định kinh tế của xã hội
Cho mỗi tiêu chỉ, ta có thể chỉ đề nghị 3 trạng thái, cho một cái nhìn đơn giản, hay ta có thể đề nghị 9 trạng thái để có một bức tranh toàn cảnh chi tiết hơn.
Thí dụ về nhà ở, với 3 trạng thái ta chỉ có thể hỏi:
Nhà ông/bà ở rộng, hẹp hay vừa ?
Với 9 khả năng, ngoài rộng, hẹp, vừa ta thêm vào: có nhà tắm, đủ một phòng cho mỗi thành viên, có vườn cây, có máy điều hòa hay máy sưỡi, có bếp tiện nghi và có bàn ghế vừa ý.
Dựa trên các câu trả lời cho những tiêu chí rõ ràng, việc tổng kết các câu trả lời của các đối tượng nghiên cứu chỉ là một phép tính trẻ con nhờ những chương trình tin học hiện nay.
Thế nhưng các nhà xã hội học chưa hết băn khoăn: có kê ra hết các tiêu chí để đánh giá cũng không có một đánh giá hoàn hảo: cộng lại với nhau, các tiêu chí có thể làm giảm hay làm tăng giá trị sống một cách đột phá. Hay nói cách khác, các tiêu chí không ảnh hưởng đơn độc tới giá trị sống mà mỗi tiêu chí còn có thể là nguyên nhân hay hậu quả của tiêu chí bên cạnh, với nhiều cách cấu trúc khác nhau. Nhà ở chật chội làm mất giá trị sống trong chừng mực nào đó và đồng thời còn có thể là nguyên nhân làm sức khoẻ không tốt, sự căng thẳng giữa các thành viên trong gia đình cao hơn, ...
Cũng một cách tổng quát, có những cấu trúc gia đình cho phép một giá trị sống cao (gia đình gồm hai vợ chồng và con nhỏ – đúng ra là gia đình hạt nhân- hay gia đình có lợi tức cao).
Trái lại, sống một mình, thành viên của những gia đình với bà mẹ đơn thân, các cụ già, ... là những người có giá trị sống thấp hơn.
Rốt cuộc, giá trị sống cũng là một khái niệm có giới hạn. Nhất là khi giá trị này chỉ tóm gọn trong một con số.
Trở về nghiên cứu của INSEE, với những tiêu chí trên, dân Pháp cho điểm giá trị sống của mình bằng 6,8/10 tức là không trên trung bình bao nhiêu.
Đó chỉ có một con số - 6,8 - Phải làm sao hiểu được con số ấy.
Chỉ 6,8 điểm trên 10? Tại vì những khủng hoảng kinh tế gần đây đã làm cho thu nhập của mỗi người tệ hơn và còn lôi theo các khó khăn khác trong giáo dục, trong địa hạt săn sóc sức khoẻ. Nhiều người thành có cảm tưởng bất an, hay bị stress lúc đi làm, ... (5)
OCDE Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế- cũng đã khởi xướng một chương trình tương tự như vậy lấy tên là How's life? - Cuộc sống như thế nào? nhằm nghiên cứu từng chi tiết tất cả các cấu thành của sự thoải mái trong cuộc sống. OCDE nhắm: lợi tức thực sự, việc làm, điều kiện nhà ở, sức khoẻ, giáo dục, liên hệ xã hội, hoạt động công dân, môi trường, an ninh và từ đó xếp hạng các nước thành viên của OCDE theo từng tiêu chỉ. Vấn đề ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế trên giá trị sống và viễn ảnh của giá trị sống trong tương lai cũng được đề cập tới.
Có thể nói đây là một công trình nghiên cứu đồ sộ, cho ta rất nhiều dữ kiện, dưới nhiều khía cạnh, vĩ mô, vừa định phẩm vừa định lượng.
Ta biết được cho mỗi xứ trong nghiên cứu có bao nhiêu phần trăm người không có thu nhập ổn định, bao nhiêu % học hành đàng hoàng, tỉ lệ có nhà ở thoải mái tiện nghi, ... Nghĩa là cho mỗi tiêu chí, OCDE có những dữ kiện cụ thể để so sánh tình trạng cuộc sống của dân các xứ. Nhưng cộng lại các kết quả để cho ra một bảng xếp hạng giá trị sống trong các nước là một vấn đề tế nhị vì các tiêu chí không có một «trọng lượng» bằng nhau.
Đề ra một bảng xếp hạng chung là tóm tắt một cách thái quá công trình này nhưng tựu chung ngắn gọn có thể nói Úc, Thụy Điển, Norway và Mỹ là những nước mà giá trị sống tốt nhất. Ý, Pháp, Đức, Bỉ, ở giữa bảng và cuối cùng là Nga, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ, Brasil, trên tổng số 41 nước mà OCDE nghiên cứu (6).
Giá trị sống là điều kiện cần nhưng chưa đủ của hạnh phúc
Não bộ và khả năng cảm nhận hạnh phúc ?
Giáo sư Richard J. Davidson (Đại học Wisconsin, Mỹ) đã nghiên cứu trong hơn ba mươi năm não bộ và khả năng cảm nhận hạnh phúc. Ông phân tích điện não đồ và hình ảnh não ghi nhận bởi máy IRM sinh hoạt để cuối cùng thiết lập «bản đồ» não bộ về cảm xúc và hạnh phúc.
Vùng vỏ não trước trán là vùng của cảm nhận khổ sở, căng thẳng (bên phải) hay hạnh phúc, thoải mái, tình cảnh tích cực (bên trái).
Như thế, những người mà vùng não trước trán bên trái phát triển nhiều là những người lạc quan, tính tình dễ chịu và tiếp xúc dễ dàng với người khác. Họ đứng dậy dễ dàng sau biến cố, nếu gặp biến cố.
Ngược lại, những người có vùng trán bên phải phát triển hơn thì bi quan, dễ bị tổn thương và khi bị tổn thương thì khó lành. Họ khổ sở hơn, bị trầm cảm thường hơn
Thành ra cảm nhận thoải mái là một khả năng, có người giỏi, người kém mà khả năng này là một khả năng sinh học.
Rốt cuộc gs Davidson chia dân tình ra làm ba loại người theo tính khí: có người hạnh phúc, người bi ai và người trung tính (7).
Phân tích theo gs Davidson, Thúy Kiều thuộc loại người bi ai, Thúy Vân là người hạnh phúc còn Vương Quan là người trung tính. Đây chỉ là một câu khôi hài, chúng ta không có dịp quan sát não bộ của ba nhân vật mà cụ Nguyễn Du tả trong truyện Kiều.
Xã hội và hạnh phúc ?
. Phát triển kinh tế và hạnh phúc
Câu hỏi nền tảng của khoa kinh tế là làm sao nâng cao hạnh phúc dân tình. Và câu trả lời của những chuyên gia này, trong nhiều thập niên, là phải làm sao cho dân giàu lên. Lo kinh tế tức là lo làm giàu cứ thể như tiền bạc mang tới hạnh phúc.
Thực trạng không đơn giản như thế.
Đúng là lúc khởi thủy, tiền bạc mang tới hạnh phúc: phải có tiền để thỏa mản những nhu cầu tối thiểu, tầng thấp nhất của tháp Maslow (nhu cầu ăn, mặc, ở).
Vĩ mô thì phải làm sao cho sản lượng quốc gia tăng để lợi tức của mỗi người khá hơn.
Thế nhưng, phần đông các nước nghèo cần mở mang kinh tế ồ ạt khai thác và bán tài nguyên. Nhờ thế, trong những năm đầu mới phát triển, sản lượng lên nhanh, dân chúng sống tốt hơn. Ai nấy bằng lòng. Sau đó, các kết quả này không bền vững, phát triển chỉ đem lợi lại cho một thiểu số, dân chỉ hưởng lộc rơi vãi, kéo theo phân tầng xã hội. Một vài người trở thành cực giàu trong lúc đó, tầng lớp nghèo vẫn tiếp tục nghèo, một cái nghèo khó sống vì ở bên cạnh những người giàu. Lại phải chịu những tệ hại về ô nhiễm môi trường.
Điều đó chứng tỏ rằng có những phát triển kinh tế không mang tới những cảm nhận thoải mái cho tất cả mọi người.
. Công bằng xã hội và hạnh phúc
Giáo sư dịch tể học Richard Wilkinson (UCL London, Anh), khẳng định rõ ràng hơn: một xã hội đầy bất bình đẳng là một xã hội bất an, giá trị sống dân tình không thể nào cao được (8).
. Liên hệ xã hội và hạnh phúc
Lý thuyết hơn, giáo sư xã hội học Johannes Siegrist (Đại học Düsseldorf- Đức), đã chứng minh rằng cảm nhận thoải mái phụ thuộc trực tiếp tới những liên hệ với môi trường xã hội ở mọi nơi, ở nhà, ở trường học hay ở nơi làm việc.
Mỗi một trong chúng ta, khi «đầu tư» vào một liên hệ xã hội đều mong mõi được đền đối xử ngược lại thỏa đáng. Khi sự đối xử này có vấn đề, cá nhân sẽ mất động lực để tiếp tục liên hệ. Tệ hơn, ta có thể bị trầm cảm hay những bệnh do tâm lý sinh ra (psycho-somatiques) (9) .
Jean-Paul Sartre có lý khi nói Địa ngục là tha nhân (trong kịch Huis clos). Hạnh phúc của ta tùy thuộc vào xã hội ta sống và liên hệ ta giữ với người khác trong xã hội – người khác đó có thể là các thành nhân trong gia đình, ở trường học hay ở nơi làm việc, ...
Thay lời chót: Sự thống trị của hạnh phúc ?
Xã hội đề cao hạnh phúc. Xứ Bhoutan tự hào về chỉ số quốc gia hạnh phúc – Bonheur National Brut thay vì Tổng sản lượng quốc gia – Produit National Brut. Truyền thông đưa ra các người mẫu lúc nào cũng tươi cười. Quảng cáo gợi ý cho ta mua món hàng này hay món kia để sống sướng hơn. Các nhà quản lý kinh tế lúc nào cũng lo cho tăng trưởng để giúp thỏa mản nhiều nhu cầu càng tốt. Các chủ xí nghiệp cố gắng lo cho tình trạng thoải mái nơi nhà máy của công nhân để cho năng suất tốt hơn. Các nhà tâm lý học và tâm thần học kê đơn thuốc Prozac, một loại thuốc an thần, được xem như là tiên dược cho hạnh phúc. Các chính trị gia thì lúc nào cũng hô hào những khẩu hiệu hạnh phúc, dân giàu nước mạnh, ...
Rốt cuộc, hạnh phúc ở đầu môi nhưng ta có thực sự hạnh phúc hay không ?
Tác giả bài này chỉ phân tích các khái niệm về cảm nhận thoải mái, về giá trị sống và xin chúc mọi người, năm mới, được nhiều liên hệ xã hội nhịp nhàng, hòa thuận để hạnh phúc với những liên hệ ấy.
....................................
(1) Một phiên bản cho cộng đồng rộng có thể đọc ở đây
http://www.moustique.be/actu-societe/224315/le-bonheur-des-belges#photospecial
(2) Albouy V., Godefroy P. & Lollivier S., « Une mesure de la qualité de vie », in Insee, France, portrait social 2010, Insee 2010.
(3)http://www.infinance.fr/articles/bourse/formation-conseil/article-richard-easterlin-un-theoricien-de-l-economie-du-bien-etre-456.htm
(4)
Amiel M.-H., Godefroy P., Lollivier S., « Qualité de vie et bien-être vont souvent de pair », INSEE Première, n° 1428, 2013, http://www.insee.fr/fr/themes/document.asp?reg_id=0&ref_id=ip1428
Audenis C., Ouvrard J.-F., Pereira É., Roucher D., «Éclaircie mondiale, l’Europe encore dans l’ombre», INSEE, Note de conjoncture, mars 2013, http://www.insee.fr/fr/themes/theme.asp?theme=17&sous_theme=3&page=note.htm
(5)Godefroy P., « Satisfaction dans la vie : les personnes se donnent 7 sur 10 en moyenne », France Portrait Social, INSEE, 2011, http://www.insee.fr/fr/ffc/docs_ffc/ref/FPORSOC11i_VE41Satis.pdf
(6) http://www.oecd.org/fr/statistiques/commentvalavie.htm
http://www.keepeek.com/Digital-Asset-Management/oecd/economics/how-s-life-2013_9789264201392
(7) Davidson R. & Begley S., The Emotional Life of Your Brain: How Its Unique Patterns Affect the Way You Think, Feel, and Live--and How YouCan Change Them
Pengiun, 2012.
(8) Wilkinson R., The Impact of Inequality: How to Make Sick Societies Healthier. The New Press, 2005.
(9) Siegrist J.& Marmot M., Social Inequalities in Health. New evidence and policy implications. Oxford University Press, 2006.