Những góc nhìn Văn hoá

Triết học và triết lý phát triển kinh tế thị trường

Sau hai mươi năm chuyển sang kinh tế thị trường và lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể và cũng thấy rõ những hạn chế của mình. Hạn chế lớn nhất của sự phát triển giai đoạn sắp tới là chưa có lý luận phát triển kinh tế phù hợp với đặc điểm dân tộc và thời đại hiện nay. Bởi vì, tư duy kinh tế của cán bộ chưa dựa trên triết học biện chứng hình thành triết lý phát triển kinh tế để chỉ đạo thực tiễn. Nói cách khác, chúng ta chưa nắm được phương pháp luận nhận thức quá trình phát triển kinh tế. Có phương pháp luận khoa học trong phát triển kinh tế không những bảo đảm cho phát triển bền vững mà còn tránh được hai sai lầm đã đưa đến thất bại trong công nghiệp hoá ở một số nước:Một là, quan điểm tả khuynh duy ý chí, dựa vào mong muốn tốt đẹp có tính chất không tưởng của lãnh đạo, thay thế cho xây dựng lý luận phát triển.Hai là, quan điểm thực dụng, bị chi phối bởi bệnh "sùng bái GDP" chạy theo tăng trưởng bất cứ giá nào, gây ra ngày càng nhiều những vấn đề xã hội và tai hoạ về môi trường.

Trong chuyên đề này sẽ tập trung vào những vấn đề Phương pháp luận phát triển kinh tế gồm những vấn đề:

1. Phát triển kinh tế là một quá trình lịch sử - tự nhiên.

2. Bản chất của quá trình phát triển kinh tế thị trường.

3. Hình thái xã hội - kinh tế của quá trình phát triển kinh tế thị trường.

4. Những giới hạn của chủ nghĩa tư bản và xu thế thời đại hiện nay.

5. Quy luật phát triển rút ngắn - một đặc điểm mới của quá trình lịch sử - tự nhiên phát triển kinh tế thị trường hiện đại.

I. Phát triển kinh tế là một quá trình lịch sử - tự nhiên

Nhìn vào lịch sử phát triển kinh tế của loài người có thể nhận thấy: một phương thức sản xuất đã hình thành và khi phát triển đến giới hạn thì sẽ có một phương thức sản xuất tiến bộ hơn phát sinh từ trong lòng phương thức sản xuất cũ thay thế. Đi đôi với chuyển biến về kinh tế thì sớm hay muộn cũng kéo theo sự thay đổi về xã hội, văn hoá và chính trị. Đặc biệt lưu ý là những tiến bộ trong phương thức sản xuất, trong xã hội và chính trị được tích hợp lại trong nền văn hoá mới.

Quá trình lịch sử - tự nhiên như thế đã thể hiện rõ trong lịch sử phát triển của phương Tây.

a. Từ thế kỷ XIII bắt đầu có sự phát triển mạnh mẽ kinh tế hàng hoá với các tuyến thương mại đường dài. Về mặt xã hội đã ra đời các phường hội, các nhóm xã hội, từ đó hình thành khu vực đô thị của những người tiểu tư sản. Về văn hoá, sự ra đời kiểu kiến trúc mới - kiến trúc Gôtích, sự hình thành các trường học lớn ở đô thị thay thế cho các tu viện ở thôn quê cùng sự chuyển đổi từ ngôn ngữ Latinh sang ngôn ngữ bản xứ.

Bước chuyển vào cuối thế kỷ XV sang thế kỷ XVI, với những phát minh về công nghệ in và phong trào cải cách tôn giáo của Martin Luther hình thành giáo hội Tin lành năm 1517. Sự phát hiện ra châu Mỹ đã thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế hàng hoá và việc sử dụng rộng rãi chữ số Ảrập ở phương Tây.

Bước chuyển vào thế kỷ XVIII với những sự kiện lớn của một bước ngoặt: phát minh ra động cơ hơi nước (của James Watt); sự ra đời của cuốn "Của cải của các dân tộc" của Ađam Smith; năm 1809 trường đại học hiện đại đầu tiên ra đời (Đại học Berlin) cùng với nền giáo dục phổ thông... Tất cả những tiến bộ ấy đã thúc đẩy cuộc cách mạng kỹ thuật và cách mạng công nghiệp, hình thành nền kinh tế thị trường hiện đại của chủ nghĩa tư bản cùng với xã hội công nghiệp và nền văn minh mới của châu Âu.

Vào cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, theo chu kỳ khoảng 200 năm, đã diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ ba tạo ra bước chuyển từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức. Chỉ với những chuyển biến ban đầu trong hai thập kỷ vừa qua đã cho thấy đây là một bước ngoặt trong đời sống của loài người trên phạm vi cả hành tinh. Tuy nhiên, lịch sử chuyển biến về kinh tế, xã hội, văn hoá và chính trị có tính hệ thống, với nhiều mâu thuẫn và nghịch lý đang diễn ra gay gắt giữa quá khứ với tương lai, giữa phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tới giới hạn với phương thức sản xuất mới đang phát sinh mà chỉ có phương pháp biện chứng mới nhận thức được xu thế thời đại mới đằng sau những nghịch lý ấy.

b. Quá trình lịch sử - tự nhiên trong phát triển kinh tế thị trường còn được phản ánh trong các lý thuyết kinh tế theo từng giai đoạn

Tương ứng với giai đoạn tự do cạnh tranh (vào thế kỷ XVIII, XIX) thì có các lý thuyết tiêu biểu của A.Smith, D.Ricardo và C.Mác.

Tương ứng với giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền thì có các lý thuyết kinh tế tiêu biểu của Lênin, J.M.Keynes, J.Schumpeter, M.Friedman.

Ở giai đoạn kinh tế tri thức hiện nay, chưa có lý thuyết kinh tế nào tiêu biểu cho giai đoạn mới, nhưng đã có một số nhận thức mới từng lĩnh vực về con người và xã hội, về nền văn hoá mới, về kiểu tổ chức quản lý mới, về nền chính trị mới, trong đó có tác phẩm nhìn bao quát rộng rãi là của A.Toffler. Điều đáng chú ý là mỗi khi giới nghiên cứu lúng túng trước thực tiễn quá phức tạp thì người ta lại nhắc đến Mác và phải "trở về với Mác". Vì sao vậy ?

Theo Midel Vadée, vì "Sức mạnh của tư tưởng Mác bắt nguồn từ sự thực là nó thiết lập thường xuyên một sự nhất trí giữa tầm vóc khoa học, khuynh hướng thực tiễn và ý nghĩa triết học của nó"[1].

Vào cuối thế kỷ XX, sau khi hệ thống chủ nghĩa xã hội nhà nước kết thúc, đã bộc lộ nhiều quan điểm và thái độ khác nhau đối với lý luận của Mác. Điều đáng chú ý là trong khi không ít người cộng sản giao động, có người chuyển sang hướng thực dụng, có người vẫn giữ quan điểm giáo điều  thì nhiều nhà khoa học hàng đầu trên thế giới lại đề cao Mác. Nhà triết học hàng đầu của Pháp là G.Đêriđa cho rằng: "Mác - nhà tư tưởng của thế kỷ XXI"; còn H.Ph.Mâyơxơ khẳng định "Ảnh hưởng của Mác sẽ còn toả rộng sang thế kỷ XXI"; Giáo sư Borix Xlavin và nhiều nhà khoa học khác thì kêu gọi "Sự trở về với Mác". Tất cả đó rút ra từ sự kiểm nghiệm của thực tiễn hiện nay đối với lý luận của Mác, kiểm nghiệm phương pháp luận nhận thức kinh tế thị trường của Mác là một quá trình lịch sử - tự nhiên.

II. Bản chất của quá trình phát triển kinh tế thị trường

Cho đến nay, kinh tế thị trường vẫn còn phát triển dưới hình thái tư bản chủ nghĩa, nhưng đằng sau hình thái đó thì bản chất kinh tế thị trường là gì vẫn chưa rõ. Chính mối quan hệ tương tác giữa hình thái tư bản chủ nghĩa với bản chất kinh tế thị trường đã tạo nên bộ mặt nền kinh tế qua các giai đoạn của nó. Để hiểu rõ vai trò lịch sử giới hạn của hình thái tư bản thì cần phải nghiên cứu bản chất kinh tế thị trường trong quá trình lịch sử - tự nhiên của nó.

Cho đến nay, các lý thuyết kinh tế đều ít chú ý đến bản chất này, chỉ có lý luận kinh tế của Mác vạch rõ bản chất kinh tế thị trường, nhờ đó chỉ ra tính tất yếu của hình thái tư bản, giới hạn của nó và xu hướng tương lai.

Bản chất kinh tế thị trường là mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên không ngừng phát triển theo các nấc thang của quá trình xã hội hoá lao động sản xuất vật chất và tinh thần tạo ra sự phát triển của phương thức sản xuất xã hội. Mác còn gọi đó là "mối quan hệ kép" không tách rời nhau và phát triển một cách tự phát. Mối quan hệ kép ấy phát sinh từ khi có kinh tế hàng hoá (vào khoảng thế kỷ XIII) và thực sự hình thành từ khi ra đời nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (vào thế kỷ XVIII).

Để đi sâu vào bản chất kinh tế thị trường, cần phải phân tích mối quan hệ kép ấy.

Thứ nhất,mối quan hệ giữa con người với con người hình thành và phát triển trong quá trình lao động và sản xuất được xã hội hoá dưới hình thức hợp tác, phân công tạo thành cơ cấu kinh tế - xã hội có tính hệ thống từ sản xuất đến tiêu dùng của xã hội. Quá trình xã hội hoá lao động và sản xuất được tổ chức bởi các chủ sở hữu xí nghiệp và thương mại, dịch vụ. Kết quả lớn nhất mang ý nghĩa lịch sử của quá trình xã hội hoá lao động và sản xuất là tạo ra giá trị thặng dư - nhân tố chủ yếu phản ánh trình độ phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ giữa con người với con người trong giới hạn của phương thức sản xuất. Quá trình phát triển giá trị thặng dư bằng năng suất lao động đã tạo ra khả năng rút ngắn ngày lao động, cải thiện dần về mặt xã hội và đời sống văn hoá của người lao động là những điều kiện cần để có tiến bộ xã hội và cá nhân.

Thông qua các giai đoạn phát triển kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa con người với con người phát triển theo tiến trình mở rộng thị trường từ địa phương đến quốc gia và phạm vi toàn cầu, dưới nhiều hình thức đa dạng về kinh tế, xã hội, văn hoá, tôn giáo, chính trị. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ kinh tế tri thức đang nâng cao chất lượng các hình thức ấy.

Tuy vậy, sự phát triển mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và cộng đồng đều chịu tác động của những mâu thuẫn phát sinh từ sự khác nhau về lợi ích kinh tế và văn hoá tạo ra những cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội, các cuộc chiến tranh đầy máu và nước mắt của nhiều thế hệ. Suy cho cùng, sự khác nhau về lợi ích kinh tế đều xoay quanh vấn đề sở hữu, còn sự khác nhau về văn hoá lại phát sinh từ sự khác nhau về hệ tư tưởng.

Thứ hai,mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thông qua hoạt động kinh tế và sinh sống của con người. Suốt chiều dài lịch sử phát triển kinh tế thị trường cho đến nay, hoạt động kinh tế vẫn dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên làm nguyên vật liệu chế tạo sản phẩm. Quy mô sản xuất càng lớn thì tài nguyên bị khai thác càng tăng. Hình thức hợp tác đầu tư quốc tế càng thúc đẩy quá trình ấy, nhất là ở các nước lạc hậu càng bị khai thác cạn kiệt.

Hậu quả là xuất hiện tình trạng sa mạc hoá, nguồn nước khan hiếm dần, nạn ô nhiễm môi trường sống và môi trường tự nhiên (sông ngòi, nguồn nước...) ngày càng tăng, mức độ biến đổi khí hậu đưa đến hậu quả nước biển dâng cao đang thu hẹp dần diện tích canh tác, cùng với những thay đổi về thời tiết ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ con người và điều kiện sinh sống của họ.

Sự phá vỡ dần môi trường tự nhiên còn gây ra nhiều vấn đề xã hội chưa lường hết được. Từ cuối thế kỷ XX bước vào thế kỷ XXI, quá trình lịch sử - tự nhiên đã phát đi tín hiệu về một bước ngoặt thách thức sống còn của loài người do mối quan hệ giữa con người với tự nhiên xấu đi. Liệu có thể dự báo rằng vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên ngày càng có ý nghĩa quyết định hơn đối với sự phát triển con người và xã hội, nó đặt ra thách thức sống còn đối với các thể chế chính trị trên thế giới.

Phân tích bản chất của quá trình phát triển kinh tế như một quá trình lịch sử - tự nhiên của sự vận động, phát triển mối quan hệ kép nói trên có thể nhận thức vấn đề gì cho cuộc sống hôm nay ?

Một là,quá trình phát triển dưới các hình thức cách mạng, cải cách, đổi mới, dù tự giác hay tự phát, suy cho cùng đều do đòi hỏi của sự phát triển mối quan hệ kép của con người và chịu sự chi phối của mối quan hệ ấy.

Hai là,sự phát triển tự do của mỗi người về nhân cách, năng lực là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị trường. Sự phát triển tự do của mỗi người là kết quả của quá trình lịch sử phát triển mối quan hệ con người với con người và con người với tự nhiên. Vì vậy, sự phát triển của cá nhân luôn gắn liền với sự phát triển cộng đồng và môi trường tự nhiên. Khẳng định vai trò của sự phát triển cá nhân cùng mối quan hệ cá nhân và cộng đồng là nhận thức đúng bản chất kinh tế thị trường, bản chất quá trình lịch sử - tự nhiên. Đúng như nhận thức của nhà khoa học vĩ đại A.Einsteni ở thế kỷ XX.

"Chỉ cá thể đơn lẻ mới có thể tư duy và qua đó, tạo ra giá trị mới cho xã hội. Nếu không có những cá thể sáng tạo, suy nghĩ và phán xét độc lập thì sự phát triển lên cao của xã hội là khó tưởng tượng; cũng như vậy, một cá thể đơn lẻ sẽ không thể phát triển nếu thiếu mảnh đất dinh dưỡng của cộng đồng"[2].

Người nhận ra sớm hơn xu thế tất yếu của sự phát triển tự do của mỗi người là Các Mác khi nghiên cứu kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thế kỷ XIX. Mác đưa ra luận điểm về xã hội tương lai là xã hội mà "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người"[3].

Ph.Ăngghen coi luận điểm ấy là sự khái quát đầy đủ nhất về tư tưởng của chủ nghĩa xã hội nhân đạo.

Điều mới mẻ nhất đối với người Việt Nam là tầm nhìn xa này đã được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước ta ngày 2/9/1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn từ bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ những lời nói về xu thế của thời đại: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá đã ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc"[4].

Đó là định hướng cho chiến lược các giai đoạn phát triển của Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

III. Hình thái xã hội - kinh tế của quá trình phát triển kinh tế
thị trường

Từ nhận thức bản chất kinh tế thị trường phải đi tới nhận thức về hình tháixã hội - kinh tế[5] của nó thì mới nhận thức đầy đủ quá trình lịch sử - tự nhiên mà trong đó mối quan hệ kép vận động và phát triển.

Cho đến nay, hình thái xã hội - kinh tế in đậm nét vào lịch sử là hình thái chủ nghĩa tư bản đã trải qua 500 năm, trong đó chủ nghĩa tư bản phát triển trên cơ sở của chính nó là nền kinh tế thị trường hiện đại chỉ 300 năm. Kinh tế thị trường ra đời và phát triển dưới hình thái tư bản chủ nghĩa như một tất yếu lịch sử. Vì quá trình xã hội hoá lao động và sản xuất bao gồm hai mặt:tính chất xã hội và tính chất tư nhân. Tính chất xã hội thể hiện ở mọi nguồn lực xã hội (lao động, tài nguyên, vốn) được huy động vào quá trình phát triển kinh tế. Tính chất xã hội còn mang lại quan hệ xã hội có tính chất dân chủ. Tính chất tư nhân thể hiện ở những người có vai trò và năng lực huy động, tổ chức, sử dụng nguồn lực xã hội ấy. Đó là những người có nguồn lực, có kiến thức tổ chức và năng lực kinh doanh. Họ là chủ xí nghiệp và theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa. C.Mác cho rằng: "Tư bản là một quan hệ xã hội", còn nhà tư bản làm chủ xí nghiệp là "nhạc trưởng của dàn nhạc" xã hội hoá ấy. Vì vậy "nhà tư bản là nhân cách hoá của tư bản". Quan niệm và thái độ của C.Mác đối với tư bản và nhà tư bản khác hẳn quan niệm ấu trĩ tả khuynh của một số người cộng sản thể hiện ở chính sách "cải tạo xã hội chủ nghĩa" để xoá bỏ tất cả, chia đều của cải mà hệ quả là trở lại tổ chức kinh tế kiểu bầy đàn và suy thoái dần.

Sự phân tích ở trên cho thấy chủ nghĩa tư bản là một mâu thuẫn giữa hai mặt thống nhất và đối lập, giữa tính chất xã hội và tính chất tư nhân, tạo nên sự vận động không ngừng từ thấp lên cao theo hướng: tính chất xã hội trong kinh tế thị trường ngày càng tăng, tính chất tư nhân bị thu hẹp dần theo các nấc thang phát triển lực lượng sản xuất.

Theo Mác, đó là quá trình phủ định đối với chủ nghĩa tư bản. Quá trình đó lại thể hiện qua các hệ thống thay thế nhau từ chủ nghĩa tư bản tư nhân đến chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đó là một quá trình phát triển biện chứng giữa bản chất kinh tế thị trường với hình thái lịch sử của nó, tạo ra những tiền đề về cơ sở kỹ thuật, về cơ cấu xã hội, về văn hoá, khoa học của xã hội tương lai ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản.

Lênin đánh giá rất cao những tiền đề này khi Người thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP) vào những năm 1921 - 1924. Theo Lênin, những tiền đề này thuộc về chủ nghĩa xã hội. Người dùng hình ảnh:

"Chủ nghĩa xã hội nhìn sang chúng ta qua khung cửa của chủ nghĩa tư bản hiện đại".

Vì sao chủ nghĩa tư bản lại tạo ra những yếu tố phủ định mình như vậy ?

Câu trả lời phải từ nguồn gốc phát sinh và phát triển chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất tư nhân, vốn là hai mặt thống nhất và đối lập trong vận động. Tính thống nhất giữa hai mặt đó là tạo ra giá trị gia tăng ngày càng nhiều từ các nguồn lực xã hội. Tính đối lập giữa hai mặt đó là sự phân phối giá trị gia tăng ấy. Các sáng kiến tổ chức kinh doanh của chủ đều do mục đích giá trị gia tăng, cũng như các cuộc bãi công của người lao động đều do phân phối giá trị gia tăng ấy. Cả hai mặt đều phát sinh từ mâu thuẫn ấy, cho đến khi xuất hiện hình thức công ty cổ phần thì người quản lý và thợ đều là cổ đông.

Xét về xu hướng phát triển, trong công ty cổ phần sẽ không còn nhà tư bản và người lao động làm thuê. Họ đều là những cổ đông, hợp tác cùng nhau trong sản xuất và phân phối lợi ích kinh doanh. Ngày nay, công ty cổ phần là hình thức phổ biến ở các nước tư bản phát triển, cổ đông không chỉ là những người trong xí nghiệp, tập đoàn mà cả người dân bên ngoài xã hội, hiện nay các công ty cổ phần vẫn còn bị chi phối bởi các tập đoàn tư bản.

Từ giữa thế kỷ XX trở đi, tính chất xã hội  trong kinh tế thị trường có bước phát triển mới với sự ra đời ngày càng nhiều các tổ chức của xã hội dân sự - các tổ chức ngoài nhà nước (NGO), có vai trò ngày càng tăng trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nhất là phát triển dân chủ trong hoạt động tư vấn, phản biện các chính sách của nhà nước.

Nên lưu ý rằng, tính chất xã hội của quá trình phát triển kinh tế thị trường hoàn toàn khác với tính chất nhà nước hoá trong nền kinh tế thời bao cấp của nước ta trước đây. Nếu tính chất xã hội của phát triển kinh tế thị trường đánh thức mỗi người nhìn rõ năng lực, vai trò, trách nhiệm cá nhân với cộng đồng, thì tính chất nhà nước hoá trong kinh tế bao cấp lại đưa con người vào mối quan hệ ban ơn và chịu ơn của bề trên đi đôi với đặc quyền đặc lợi của một số cán bộ cầm quyền. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất nhà nước hoá đã cản trở quá trình phát triển kinh tế, xã hội và chính trị nhân văn, cản trở việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân thực hiện một "xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".

Để giải quyết tốt mâu thuẫn ấy, còn phải nhận thức đúng vai trò và giới hạn của tính chất tư nhân trong quá trình lịch sử - tự nhiên phát triển kinh tế thị trường.

Theo các công trình đã nghiên cứu[6] thì loài người mới bắt đầu phát triển vào khoảng 5 - 6 ngàn năm nhờ mức độ thức tỉnh dần của con người đối với bản thân, với quyền tư hữu.

 Ý thức về lợi ích riêng của cá nhân phát triển thành ý thức tư hữu đã trở thành nhân tố kích thích sự phát triển của những người khác bắt đầu là thủ lĩnh bộ lạc, vua chúa cho đến nhà tư bản thời hiện đại. Nét mới là sự kích thích về lợi ích riêng về vật chất và tinh thần trong kinh tế thị trường dần dần trở thành có tính xã hội đối với những ai có nhận thức mới (những người lao động có sáng kiến, các nhà khoa học và công nghệ, nhà kinh doanh...) khác hẳn tính chất bầy đàn trước đó.

Ngoài ra, khi xem xét vấn đề ý thức tư hữu của con người cũng nên lưu ý ở phương Tây khác phương Đông. Ở phương Tây ngay từ thời cổ đại đã cósở hữu tư nhân về ruộng đất - loại tư liệu sản xuất quan trọng nhất, nên đã thúc đẩy cải tiến công cụ, tăng năng suất và phát triển thương mại. Kinh tế hàng hoá hình thành, tạo ra sự phân công lao động và phân chia xã hội thành giai cấp. Đó là cơ sở ra đời chế độ tư hữu tư bản. Còn ở phương Đông duy trì chế độ công hữu về ruộng đất (thực chất là của nhà nước) rất dài cho đến thế kỷ XIX, nên rơi vào tình trạng trì trệ, kinh tế kém phát triển hơn phương Tây nhiều, mặc dù trước đó đã có những phát minh sáng chế vượt trội so với phương Tây.

Khác với sở hữu tư nhân trước đó, sở hữu tư bản biết khai thác mọi nguồn lực của xã hội và của tự nhiên (với mọi giá) để phát triển lực lượng sản xuất xã hội đồ sộ. Mác đã đánh giá rằng "Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử"[7].Ý nghĩa lịch sử của phát triển lực lượng sản xuất là đã tạo ra giá trị thặng dư, hơn nữa đã đi đến "năng suất lao động thặng dư" là điều kiện để chuyển sở hữu tư bản đến sở hữu cổphần.

Trong hình thức công ty cổ phần của những người lao động đang có sự chuyển biến về chất: sự phát triển của công ty cổ phần sẽ hình thành hai loại hình sở hữu mới:sở hữu xã hội (như quỹ không chia) và sở hữu cá nhân của các cổ đông. Đó là cơ sở kinh tế cho sự xuất hiện xu thế "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người". Đó là nhân tố mới chuẩn bị chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang hậu tư bản.

IV. Những giới hạn của chủ nghĩa tư bản và xu thế thời đại hiện nay

1. Về giới hạn của chủ nghĩa tư bản

Không phải ngẫu nhiên, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu, trong đó có P.F.Drucker đã nhận thấy một chiều hướng là "Các nước phát triển đang chuyển ra khỏi bất kỳ những gì mà có thể gọi là chủ nghĩa tư bản"[8].Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu sự thay đổi từng lĩnh vực trong xã hội tư bản. Tất cả đều chỉ rõ một vấn đề: Sự phát triển của hình thái tư bản đã tới giới hạn của nó, thể hiện trên hai mặt chủ yếu sau đây:

Thứ nhất,bản chất kinh tế thị trường thúc đẩy mối quan hệ giữa con người với con người, nhưng hình thái tư bản vừa thúc đẩy mối quan hệ ấy, lại vừa hướng mối quan hệ ấy vào chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa tự do ích kỷ. Hậu quả là xảy ra khủng hoảng kinh tế và xã hội, phân hoá giàu nghèo quá lớn, lối sống theo kiểu xã hội tiêu thụ, phát sinh nhiều tai hoạ (bắn giết nhau, tình trạng tự tử tập thể...). Đó là hai mặt của nền văn minh phương Tây.

Các nhà nước tư bản luôn đứng trước hai sức ép nặng nề từ phía xã hội và từ phía các tập đoàn tư bản. Khi nhà nước quan tâm đến yêu cầu xã hội thì sức ép tập đoàn tư bản lớn nhất (trong lịch sử Hoa Kỳ, nước phát triển nhất của chủ nghĩa tư bản có 7 tổng thống đã bị ám sát và đầu độc, có người bị đầu độc ngay sau khi đọc diễn văn nhậm chức như W.H.Harrison (1841), có người bị bắn chết khi còn là ứng cử viên sáng giá chức tổng thống như Robert Kennedy (1968). Còn khi nhà nước nghiêng về lợi ích các tập đoàn tư bản thì sớm muộn cũng xảy ra khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Thứ hai, bất lực của chủ nghĩa tư bản trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Có thể cho rằng nếu trong mối quan hệ giữa con người với con người, giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã giải quyết được một nửa, đã tạo cơ sở cần thiết để hoàn thiện mối quan hệ ấy, thì trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên lại gây ra những hậu quả hiểm nghèo cho cả nhân loại. Đằng sau mô hình tăng trưởng kinh tế của các nước là sự tàn phá môi trường tự nhiên ngày càng nghiêm trọng. Hậu quả của tàn phá môi trường tự nhiên đã vượt lên trên những khó khăn do sự khác nhau về văn hoá, về hệ tư tưởng. Chỉ cần tính cả những thiệt hại về môi trường vào GDP thì có lẽ không có nước nào trên thế giới có tỷ lệ tăng trưởng dương[9].

Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ngày càng xấu đi, lại đang tác động tiêu cực đến mối quan hệ giữa con người với con người, ngày càng xuất hiện những nghịch lý có tính toàn cầu về kinh tế, văn hoá, chính trị và quan hệ quốc tế[10].

Phân tích thực trạng phát triển mối quan hệ kép của con người trong cuối thế kỷ XX cho thấy: Hình thái xã hội - kinh tế tư bản chủ nghĩa đã tới giới hạn cuối cùng của nó. Quá trình xã hội hoá lao động và sản xuất sẽ vượt qua hình thái đó và phát triển với hình thái mới. Đó là xu thế tất yếu của thời đại hiện nay.

2. Xu thế thời đại kinh tế mới của quá trình lịch sử - tự nhiên

Bước vào thế kỷ XXI, tuy mới ở thập kỷ đầu, nhưng sự vận động phát triển của nó lại thể hiện một quan niệm biện chứng của Mác: "Khi lịch sử đặt ra vấn đề gì thì nó cũng chuẩn bị khả năng để giải quyết vấn đề ấy".

Đúng như vậy, khả năng để giải quyết các vấn đề nói trên đã hình thành ở giai đoạn cuối của chủ nghĩa tư bản. Đó là lực lượng sản xuất mới dựa trên khoa học và nền kinh tế tri thức. Đây là thành tựu lớn nhất của quá trình xã hội hoá lao động và sản xuất mấy trăm năm, dựa trên động lực chạy theo giá trị gia tăng của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời đây cũng là nhân tố phủ định đối với chủ nghĩa tư bản theo mỗi bước trưởng thành của nền kinh tế tri thức. Theo C.Mác, thì đó là sự phủ định của phủ định đối với sở hữu tư nhân trong lịch sử nhân loại.

Như vậy, quá trình hình thành mối quan hệ kép của con người thực sự đã diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên: Sự phát triển sở hữu tư nhân dựa trên lao động bản thân trong nền sản xuất nhỏ thủ công đã hình thành sở hữu tư bản; quá trình xã hội hoá trong chế độ sở hữu tư bản lại phủ định sở hữu tư nhân dựa trên lao động bản thân và hình thành sở hữu tư bản dựa trên lao động làm thuê; sự phát triển của sở hữu tư bản mấy trăm  năm, cuối cùng lại tạo ra sở hữu cổ đông của người lao động một cách phổ biến - cơ sở và điều kiện của phát triển cá nhân.

Nhìn tổng quát, khâu trung tâm của quá trình lịch sử chuyển biến như thế là sự phát triển tự do và toàn diện của con người với tư cách mỗi cá nhân theo từng nấc thang của xã hội hoá lao động và sản xuất. Ngoài ra, còn cần chú ý một khía cạnh khác là sự phát triển cá nhân trong quá trình xã hội hoá luôn luôn là điều kiện cho sự phát triển cộng đồng. Mặt khác, sự phát triển của cộng đồng lại là môi trường cần thiết của sự phát triển cá nhân. Kinh tế tri thức là hình thái kinh tế duy nhất đem lại khả năng thực tế cho sự phát triển đồng thời của cá nhân và cộng đồng một cách hài hoà, khi nó hình thành và tất yếu hình thành hình thái xã hội - kinh tế mới thay thế cho hình thái xã hội - kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Theo những nghiên cứu đáng tin cậy trong hai thập kỷ (cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI) đã dự báo một số biến đổi theo hướng nói trên sau đây:

1. Về kinh tế,để tồn tại, các tập đoàn kinh tế sẽ tự tổ chức thành một liên minh các công ty nhỏ độc lập, do tác động của khuynh hướng "Nền kinh tế thế giới càng lớn, thì những phần tử nhỏ nhất trong nó sẽ càng mạnh hơn" (J.Naisbitt).

Thế giới mới sẽ là một sự đan quyện giữa cạnh tranh và liên kết, giống như âm với dương để tìm sự cân bằng và luôn thay đổi.

2. Về văn hoá - xã hội,những thay đổi quan trọng nhất được dự báo là:

- Xu hướng thâm nhập vào nhau giữa khoa học tự nhiên với khoa học xã hội mà kết quả là hình thành khoa học về con người. Xu hướng này đã được Mác dự báo và trong thế kỷ XX đã thể hiện ở một số nhà khoa học lớn như A.Einstein, J.Quyri.

- Về giáo dục hướng tới mục đích "Học để làm người" đúng như tư tưởng Hồ Chí Minh, bằng cách giáo dục thức tỉnh các tài năng, bồi dưỡng, phát hiện tài năng và phẩm chất ở con người.

- Cùng với bước tiến của kinh tế tri thức, thì lao động tri thức ngày càng chiếm đa số trong lực lượng lao động xã hội. Trong cơ cấu xã hội hình thành tầng lớp trung lưu ngày càng tăng. Đó là cơ sở hình thành xã hội mới dân chủ, công bằng, văn minh (A.Toffler hy vọng đó là nền văn minh thứ ba).

Những thay đổi trong kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường là những tiềm lực mới tạo thành định hướng Phát triển bền vững về kinh tế và xã hội, lấy sự phát triển tự do và toàn diện của con người làm mục tiêu.

3. Về chính trị,từ những thay đổi về chất trong kinh tế, văn hoá xã hội nói trên, đã có dự báo về sự kết thúc của nền dân chủ đại diện, để người dân có thể trực tiếp tham gia và kiểm soát những biến đổi trong đời sống của họ. Như vậy, những thay đổi về chất trong cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội chắc chắn sẽ đòi hỏi một nền chính trị nhân văn. Đồng thời, những thay đổi ấy là báo hiệu sự kết thúc của các thể chế chính trị lỗi thời như chủ nghĩa dân tộc bá quyền, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, các thẻ chế độc quyền (của một nhóm hay gia đình trị), các lực lượng chống lại con người...

Niềm tin ở xu thế thời đại mới là có căn cứ và sẽ như lời của Victor Hugo: "Không có gì, kể cả quân đội trên toàn thế giới, có thể ngăn cản được một ý tưởng khi thời đại của nó đã tới".

V. Quy luật phát triển rút ngắn - một đặc điểm mới của quá trình lịch sử - tự nhiên phát triển kinh tế thị trường hiện đại

Kinh tế thị trường vốn mang trong mình nó tiềm năng xã hội hoá ngày càng lớn, nên nó không dừng lại ở phạm vi dân tộc, quốc gia mà lan toả ra toàn cầu. Trong quá trình mở rộng ấy, do những điều kiện cần và đủ cho quá trình công nghiệp hoá ở các nước không giống nhau, nên sự phát triển kinh tế thị trường không đều ở các nước, thời gian hoàn thành công nghiệp hoá và hiện đại hoá cũng khác nhau. Nước Anh thực hiện công nghiệp hoá đầu tiên mất 120 năm, còn mấy "con Rồng châu Á" chỉ cần khoảng 30 năm với mức độ hiện đại hoá cao hơn.

Đây là thực tiễn mang tính quy luật, nhưng các nước phát triển sau có nắm bắt được cơ hội phát triển rút ngắn không còn phụ thuộc vào điều kiện chủ quan, trong đó sự lãnh đạo chính trị có tính quyết định.

Trong lịch sử hơn 300 năm của kinh tế thị trường hiện đại, đã từng có nhiều nước phát triển theo chủ nghĩa tư bản nắm bắt được cơ hội ấy, nhưng cũng có một số nước thất bại trong công nghiệp hoá gây ra biến động xã hội và chính trị mà nguyên nhân chủ yếu đều do lạc hậu về chính trị. Trong thế kỷ XX, đã có sự kiện phát triển rút ngắn theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga do Lênin khởi xướng và chỉ đạo thành công[11], nhưng sau khi Lênin mất thì nền kinh tế nước Nga chuyển sang hướng khác và cuối cùng sụp đổ.

Từ thực tiễn thế giới nói trên, có thể rút ra những nội dung của quy luật phát triển rút ngắn sau đây:

Thứ nhất,khả năng phát triển rút ngắn chỉ xuất hiện khi trình độ phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những tiền đề về khoa học kỹ thuật, về tài chính, về tổ chức quản lý tiên tiến. Nhờ đó, khi tiếp thu được, thì các nước đi sau mới có điều kiện rút ngắn quá trình phát triển kinh tế thị trường.

Thứ hai, trình độ và chất lượngcủa những tiền đề ấy trong giai đoạn kinh tế công nghiệp đầu thế kỷ XX thấp hơn nhiều giai đoạn kinh tế tri thức. Chính trình độ và chất lượng ấy quy định một cách khách quan về định hướng phát triển kinh tế thị trường. Ở giai đoạn kinh tế công nghiệp, định hướng tư bản chủ nghĩa lấy lợi nhuận làm động lực và mục tiêu là tất yếu. Còn các tiền đề phát sinh ở giai đoạn kinh tế tri thức lại đòi hỏi định hướng phát triển bền vững, trong đó vấn đề xã hội và môi trường được đồng thời giải quyết trong tăng trưởng kinh tế. Định hướng chính trị hiện nay chỉ là và phải là biểu hiện nhu cầu ấy của phát triển kinh tế, khác với định hướng chủ quan duy ý chí. Đúng như quan điểm của Lênin "chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế". Trên cơ sở ấy, chính trị mới có "địa vị hàng đầu so với kinh tế" trong thời kỳ thực hiện NEP thành công.

Thứ ba,nhận thức và lựa chọn đúng mô hình kinh tế phù hợp với thời đại kinh tế. Lịch sử đã cho thấy: nắm bắt được các tiền đề phát triển rút ngắn của thời đại phải được thể hiện ở mô hình kinh tế phù hợp. Đây là một nội dung quyết định của quy luật phát triển rút ngắn, do đó nó quyết định thành bại của công cuộc cải cách, mở cửa. Vào cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, khi kinh tế tri thức ra đời và phát triển mạnh, nhưng nhiều nước phát triển sau vẫn lựa chọn mô hình công nghiệp hoá truyền thống theo định hướng tư bản chủ nghĩa đã thất bại, còn mấy nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì sau thời gian ngắn tăng trưởng nhanh, đang rơi vào nhiều mâu thuẫn nan giải về xã hội và môi trường, mà Trung Quốc là điển hình.

Hãy lướt qua một số nghiên cứu ở trong và ngoài Trung Quốc. Tờ Minh Báo, Hồng Công[12] rút ra năm vấn đề nan giải bên cạnh những thành công trong 30 năm cải cách, mở cửa: Cải cách chính trị chậm, không theo kịp cải cách kinh tế; tình trạng tham ô hủ hoá trong bộ máy dẫn đến nhiều xung đột xã hội; khoảng cách phát triển thành thị với nông thôn, miền Đông với miền Tây, giữa các giai tầng xã hội làm phát sinh hàng loạt mâu thuẫn; đạo đức xã hội xuống cấp, nhiều tệ nạn xã hội như lừa đảo, nghiện hút ma tuý, trộm cắp, sữa có độc tố, thuốc giả, rượu giả...; phát triển kinh tế phải trả giá đắt về môi trường, 300 triệu người không được sử dụng nước sạch, tai nạn hầm mỏ liên miên, môi trường ô nhiễm gây ra bão cát ở Bắc Kinh, thuỷ triều đỏ ở vùng duyên hải, nạn tảo xanh ở Thái Hồ, Điền Trì.

Nguyên nhân chính là sự lỗi thời của mô hình kinh tế do bệnh "sùng bái GDP"2.

Ở bên ngoài, ông Wenran Jiang - Chủ tịch Viện Nghiên cứu Trung Quốc ở Đại học Alberta, Canada nhận xét: "Những thành tựu Trung Quốc đạt được sau 1979 chính là nhờ mô hình hiện đại hoá truyền thống, mọi sự phát triển đất nước này thực hiện trong suốt 30 năm qua đã lặp lại chính những gì mà các nước công nghiệp hoá đã làm từ 300 năm trước".

Rút ra vấn đề:mô hình công nghiệp hoá truyền thống không phải là nền tảng của định hướng xã hội chủ nghĩa.

Từ đó, hãy suy nghĩ về mô hình kinh tế Việt Nam hiện nay ?

Thứ tư,nhận thức điểm xuất phát của dân tộc về kinh tế, văn hoá, xã hội khi bước vào quá trình phát triển rút ngắn. Từ đó nhận rõ khoảng cách chênh lệnh giữa đất nước với quốc tế, nhận rõ tiềm năng và hạn chế của nội lực, nhất là về lực lượng lao động, khoa học và giáo dục, phẩm chất tư duy và phương pháp của đội ngũ lãnh đạo, quản lý. Nhận thức đúng như thế mới có khả năng khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí của người cầm quyền và bệnh tự phát tiểu tư hữu của xã hội lạc hậu vẫn còn nặng nề.

Thứ năm,sớm có chiến lược xây dựng lực lượng lao động tri thức phù hợp với yêu cầu của mô hình kinh tế phát triển bền vững trong tất cả các lĩnh vực, ưu tiên thực hiện trong mấy lĩnh vực cốt yếu nhất: kinh tế, khoa học và giáo dục, lãnh đạo và quản lý. Chính sách đối ngoại phải coi chiến lược này ở vị trí hàng đầu cùng với chiến lược kinh tế. Bởi vì lực lượng lao động này như "chiếc cầu dẫn" tiếp nhận những thành tựu tiên tiến của thế giới. Không có lực lượng ấy, chỉ nặng nề kêu gọi đầu tư kinh tế thì hậu quả sẽ khôn lường, sẽ chuyển từ khả năng phát triển rút ngắn sang nguy cơ thất bại sẽ làm cho đất nước trở thành bãi rác của thế giới.

Thứ sáu,những nội dung trên có thực hiện được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng của thể chế chính trị. Đây là thử thách mà không phải nước nào, đảng nào cũng vượt qua được. Thử thách này, trước hết thể hiện trong những khâu then chốt của định hướng phát triển: Thực chất Nhà nước pháp quyền của ai thể hiện trong hoạt động thực tiễn chứ không phải trong lời nói; vai trò, ý thức của người dân trong lao động, trong kiểm tra kiểm soát quá trình phát triển về kinh tế, văn hoá, chính trị; mức độ phát triển văn hoá chính trị của bộ máy cầm quyền.

Tính thực tiễn phát triển rút ngắn của đất nước nằm trong trình độ phát triển các khâu then chốt ấy của thể chế chính trị.

*
*    *

Từ nhận thức quy luật phát triển rút ngắn liên hệ với thực tiễn đổi mới ở Việt Nam thì thấy rõ:

(-) Nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với xu thế thời đại và nhu cầu của xã hội Việt Nam. Cơ hội và điều kiện cho phát triển rút ngắn rất lớn và đang mở rộng.

(-) Tuy vậy, mô hình phát triển nước ta vẫn chưa ra khỏi mô hình hiện đại hoá truyền thống, nên nảy sinh nhiều vấn nạn xã hội và môi trường. Những hạn chế và cản trở sự phát triển, chủ yếu do chưa nhận thức rõ điểm xuất phát, những giá trị và những nhược điểm của nó, cũng như nhận thức đầy đủ xu thế thời đại hiện nay.

(-) Tiếp tục đổi mới thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển rút ngắn phải trở thành động lực cho phát triển giai đoạn tới một cách bền vững. Việc cần là nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luậntổ chức dựa trên Phương pháp luận nhận thức quy luật phát triển rút ngắn ở Việt Nam như một quá trình lịch sử - tự nhiên.

Muốn vậy, ngoài kế thừa những giá trị Mác và Lênin còn phù hợp thời đại hiện nay, cần tập trung vào khái quát về mặt lý luận những giá trị Hồ Chí Minh đã thể hiện trên nhiều lĩnh vực của quy luật phát triển từ một nước nông nghiệp lạc hậu vốn là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân đi tới xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
 


[1]M.Vadeé,Mác, nhà tư tưởng của cái có thể.

[2]A.Einstens,Thế giới như tôi thấy, Nxb Tri thức, 2005, tr.24.

[3]C.Mác - Ph.Ăngghen,Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.628.

[4]Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh Tuyển tập, t.1, Nxb Sự thật, 1980, tr.351.

[5]Theo Mác:"Về đại thể, có thể coi các phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại là những thời đại tiển triển dần của hình thái xã hội - kinh tế", sau này, ở Nga dịch là "hình thái kinh tế - xã hội".

[6]Trong đó có cuốn "Minh triết của giới hạn" của Ngô Tự Lập, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.

[7]C.Mác - Ph.Ăngghen,Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.559.

[8]D.F.Drucker,Xã hội hậu tư bản, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, 1995, tr.9.[9]Theo tin quốc tế: Một viện nghiên cứu ở Trung Quốc đã phân tích GDP ở một tỉnh tăng liên tục nhiều năm là 9%, nhưng khi tính thiệt hại về môi trường 15% thì tỉnh đó tăng trưởng âm 6%.

[10]J.Naisbitt,Nghịch lý toàn cầu, Thông tin chuyên đề của Viện Nghiên cứu tài chính, Hà Nội, 1997.[11]Trần Ngọc Hiên, Chính sách kinh tế mới của Lênin và vận dụng vào điều kiện nước ta, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1988; Nxb Sự thật, 1989.

[12],2Nhìn lại 30 năm cải cách mở cửa của Trung Quốc, Thông tấn xã Việt Nam, tr.175 - 176 và tr.179. 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114576789

Hôm nay

2287

Hôm qua

2306

Tuần này

22102

Tháng này

223846

Tháng qua

130677

Tất cả

114576789