Năm 1954, hiệp ước Genève đã biến sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị thành một nhát cắt tàn nhẫn, ngăn đôi đất nước thành hai miền Nam và Bắc. Sự phân ly này kéo dài hơn hai thập niên và mang theo nhiều hệ lụy bi thương mà không một dân tộc nào muốn có. Trong lịch sử, đây là lần dân cư bị xáo trộn nhiều nhất. Nguyễn Hiến Lê ghi chép rằng có “140.000” người miền Nam ra miền Bắc tập kết và tới “860.000 đồng bào miền Bắc di cư vào Nam”(1). Trong gần một triệu người Bắc vô Nam đó có gần một trăm nhà văn, nhà thơ (Tính theo cuốn Hai mươi năm – Văn học miền Nam 1954 - 1975 của Võ Phiến (2)).
Văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 phát triển trong bối cảnh chiến tranh và chia cách ấy. Tiếng nói và sự hoài niệm của những nhà văn gốc Bắc xa quê, dĩ nhiên góp phần đáng kể; nhưng quan trọng hơn, đó còn là sự đồng vọng của cả dân tộc, đất nước hướng về cội nguồn. Hà Nội trong văn chương của Thạch Lam, Nguyễn Tuân viết ở giai đoạn trước 1945 được in lại và được đón nhận bằng niềm thương nỗi nhớ và Hà Nội cũng được tái hiện trong văn xuôi giai đoạn sau 1954 tại miền Nam.
2. Trong số những nhà văn gốc Bắc hay viết về Hà Nội thì Vũ Bằng là trường hợp nổi bật. Ông không chỉ viết nhiều mà còn viết rất hay về Hà Nội. Mai Thảo nhắc đến Hà Nội da diết trong một số tùy bút; Viên Linh, Lê Tất Điều, Y Uyên, Nhật Tiến và nhiều nhà văn khác đều có khai thác bối cảnh Hà Nội và đưa vào tác phẩm một số chi tiết liên quan đến Hà Nội. Trong truyện ngắn có tên Thời niên thiếu của Thảo đăng trên tạp chí Văn, Viên Linh viết:
“Hà Nội, kinh thành mơ ước của chúng tôi, đêm đêm vẫn hiện ra trong tầm mắt bằng một vùng ánh sáng xanh mờ. Chúng tôi chưa từng đặt chân xuống cửa ngõ kinh thành, là Ngã Tư Sở theo đường từ quê tôi mà tới, nhưng mỗi đêm Hà Nội vẫn hiện ra bằng thứ ánh sáng huyền hoặc kia, rạng rỡ một góc chân trời, chiếu thẳng lên không trung những tia lân tinh ngọc thạch…” (3)
Vũ Bằng không chỉ viết về Hà Nội bằng những ký ức lấp lánh của thời thơ ấu. Những trang văn của ông là sự chiêm nghiệm, thao thức của một người Hà Nội với vùng đất - vùng văn hóa mà mình đã được sinh ra, được nuôi dưỡng. Không phải chỉ có tập Miếng ngon Hà Nội, Vũ Bằng mới nhắc tới địa danh và văn hóa Hà Nội; mà trong các tác phẩm lớn khác như Bốn mươi năm nói láo, Thương nhớ mười hai, Phù Dung ơi vĩnh biệt, Nhà văn lắm chuyện…, Hà Nội cũng thường xuyên xuất hiện. Tập Thương nhớ mười hai là bằng chứng xác đáng nhất về tình yêu Hà Nội của Vũ Bằng. Nhà văn Triệu Xuân đã từng nhận xét rất trân trọng rằng:
“Thương nhớ mười hai là một trong những áng văn bất hủ viết về đất nước quê hương. Phải là một con người nặng lòng yêu thương Tổ quốc, yêu thương quê hương, yêu thương Hà Nội hơn ai hết thì mới viết được một cuốn sách hay như thế!”(4)
Hà Nội trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng là niềm thương nhớ, là sự thăng hoa của ký ức, cảm xúc; nhưng sức hấp dẫn, lôi cuốn của tác phẩm chính là ở chỗ Hà Nội vừa rất riêng vừa là tình yêu non nước Việt nói chung. Khái niệm “quê hương” trong Thương nhớ mười hai là “quê nhà” với đúng nghĩa của nó. Suốt mười hai tháng, suốt trong những trang văn, Vũ Bằng luôn tha thiết gọi tên Hà Nội:
“… Chiều chiều đứng ở nhà Khai Trí, Tiến Đức nhìn lên cầu Thê Húc sơn đỏ ở giữa đám cây xanh đông đảo người đi lễ trong đền Ngọc Sơn trắng toát, anh cảm thấy có những lúc nước lộn lên trời, trời rơi xuống đất khi nhìn những bóng người hiện ra huyền ảo dưới làn nước xanh mơ.
Qua Ngõ Hồ là đền Hàng Trống có tiếng là “hương ngát của trời”, quá ra đến Hàng Hài là đền Quan Phước (…), ra lối Tòa Án là chùa Quán Sứ. - Ờ, chắc bây giờ mấy cây thông bách tán ở trước chùa đã lớn rồi đấy nhỉ! Thế rồi chùa Dâu, chùa Kim Cổ, đền Quan Thánh, chùa Trấn Quốc thờ ông thánh đồng đen, chùa Bà Đá, chùa Liên…”(5).
Với nhà văn, Hà Nội không chỉ hóa tâm hồn mà thực sự đã là những giá trị tinh thần không thể thiếu. Nhân vật xưng “tôi” trong Thương nhớ mười hai không quay về hoàn toàn với ký ức mà vẫn mang Hà Nội theo mỗi bước đi của mình. Trong tác phẩm, thời gian quá khứ đan xen với thực tại; không gian văn hóa miền Bắc thường được đem ra đối sánh với miền Nam và trung tâm điểm của không gian ấy là Hà Nội cũng nằm trong mối tương quan với thành phố Sài Gòn. Nói khác hơn, trong Thương nhớ mười hai, tác giả luôn đặt các sự vật trong hệ qui chiếu Bắc - Nam, quá khứ - thực tại. Rất nhiều đoạn văn trong tác phẩm mô tả Hà Nội từ điểm nhìn hiện tại như:
“…bây giờ nghe tiếng ve kêu ở trên rừng, trong núi hay giữa đô thành ngọc ngà này, bất cứ lúc nào, tôi cũng nhớ lại tiếng ve kêu rền rền đặc biệt ở Hà Nội ngày xưa (…). Đã nhớ như thế là nhớ tất cả: nhớ ánh đèn lung linh ở phía Tràng Tiền rung động trong nước hồ, nhớ Bút Tháp, Nghiên Rùa, nhớ những cây liễu xanh mơn mởn nằm nghiêng trên mặt nước chỗ cạnh trấn Ba Đình…”
“Những ngày Tết ở đất Bắc xa xưa, dưới nhang khói chùa Trấn Vũ, đền Ngọc Sơn hay là đền Bạch Mã, tôi đã trông thấy người ta lễ thành khẩn, lễ xuýt xoa và cảm thấy lòng thích thú vì thấy người ta tin tưởng. Nhưng ở chùa Phổ Quang trong Bắc Việt Nghĩa Trang ở Sài Gòn Tết ấy, thấy đồng bào chen nhau lễ,…”(6).
Có lẽ do sống ở miền Nam, do chia ly, cách biệt với quê hương xứ Bắc; nên trong Thương nhớ mười hai, Hà Nội càng đẹp lấp lánh, càng đậm đà, da diết bởi vị nhớ thương. Nhưng Vũ Bằng cũng như các nhà văn gốc Bắc vẫn nhìn Hà Nội bằng con mắt của người Hà Nội. Trong văn xuôi miền Nam giai đoạn 1954 – 1975, viết về Hà Nội còn có nhiều nhà văn gốc gác miền Nam.
3. Trong số các nhà văn miền Nam, Võ Hồng là người dành nhiều cảm tình cho Hà Nội. Các truyện ngắn có nhắc đến Hà Nội của ông không chỉ mô tả bờ hồ, góc phố, những con đường, món ăn đặc trưng của đất kinh kỳ mà còn ghi nhận chân thực nhiều đặc điểm lịch sử giai đoạn trước 1945. Ví dụ như trong truyện Ngày xưa, tác giả viết rất cụ thể mốc thời gian:
“... Ngày 10 và 14 tháng 10 năm 1943, phi cơ Mỹ thả bom xuống Hà Nội. Lệnh tản cư đưa ra. Những chuyến tàu chở người tản cư kéo hàng hai mươi toa rầm rộ chạy suốt đêm. Tôi không thể còn ở lại Hà Nội nữa. Gửi lại tất cả đồ đạc, gửi lại cả một hy vọng rộng rãi về tương lai, tôi xách va-li nhỏ lên ga Hà Nội, lên tàu xuôi Nam.
... Tôi nhớ rõ, ngày 16 tháng 10, một buổi chiều xám, lạnh. Xung quanh mọi vật đen và buồn...”(7).
Trong truyện Hoài cố nhân, Hà Nội cũng gắn với sự kiện lịch sử Nhật đảo chính Pháp:
“… khoảng đầu năm 1942. Nước Pháp bại trận ở Âu châu đã mở đường cho Nhật tràn vào Đông dương (…). Những cô đầm cong cớn không còn đi nghênh ngang trên phố Tràng Tiền mà được thay bằng những anh lính Nhật lùn, đi lạch bạch với vỏ gươm dài lê thê…”
Còn trong truyện ngắn Hà Vi, nhân vật là một người Hà Nội di cư vào Nam, viết bức thư cho người yêu cũ mà nội dung chủ yếu là nhắc lại những kỷ niệm về Hà Nội:
“…Anh sẽ nhắc em nhớ đến “những ngày Halais” như hồi ở Hà Nội anh thường nói. Những ngày Halais! Anh còn nhớ những ngày chúng mình đi chợ Hôm mua hoa loa kèn, những lúc mình ngồi uống nước chanh quả vừa ngồi đợi tàu điện trước mặt nhà thuốc Tây Nguyễn Đình Hoằng không? Anh còn nhớ ngày nào anh ở số 11 ngõ Tràng An cạnh nhà chị Tố và bà Tham Huệ (…). Anh còn nhớ những ngày đông lạnh chúng mình đi ăn chả cá ở phố Hàng Cân và khi đi ngang qua phố Chợ Hôm anh lè lưỡi nhìn những con chó nạo lông sạch bị treo ngược ở mấy cái móc sắt trước quầy hàng không? Anh còn nhớ hàng cháo lòng ở phố Hàng Lọng, hàng xôi “chuối tiêu trứng cuốc” ở phố Cửa Nam, hàng bánh cốm ở phố Hàng Than không? Em muốn nhắc anh nhớ hết, con đường Cổ Ngư, bờ hồ Hoàn Kiếm, phố Sinh Từ, ga Hàng Cỏ, vườn hoa Con Cóc… cho đến Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Dền, Ô Cầu Giấy…”(8).
Bình Nguyên Lộc cũng như Sơn Nam là người viết về văn hóa Nam Bộ đậm đà nhất. Nhiều truyện của ông có các nhân vật là người Hoa gốc Triều Châu, người Quảng Nam, Quảng Ngãi hay là người Hà Nội, người Bắc nói chung. Trong truyện ngắn Quyển gia phổ, Bình Nguyên Lộc xây dựng nhân vật Thụ làm nghề khai thác lâm sản: ngày Tết, Thụ đến nhà Tồn để tìm không khí gia đình ấm cúng. Thụ sống ở miền Nam nhưng vẫn giữ các phong tục, nếp sinh hoạt của người Bắc, mặc “chiếc áo dài bằng the thâm, đầu bịt khăn chữ nhứt chớ không phải chữ nhơn” như người miền Nam, vẫn nói giọng Bắc, thích ăn bánh chưng hơn bánh tét và đặc biệt là cho dù ăn Tết rất đầy đủ vẫn cứ thấy thiếu, “thấy nhơ nhớ cái lạnh, nhơ nhớ bình thủy tiên và rất nhiều thứ lặt vặt khác…” (9).
4. Như vậy, Hà Nội vừa là một địa điểm xác thực, một không gian – bối cảnh nghệ thuật được nhiều tác phẩm văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 quan tâm đến. Có nhiều lý do để Hà Nội trở thành một trong những cảm hứng sáng tác của nhiều tác giả; nhưng hình ảnh của Hà Nội chung nhất qua các truyện ngắn, truyện dài và tùy bút là:
Hà Nội đẹp vì Hà Nội là thủ đô, là thành phố lớn, là nơi hội tụ thu hút nhiều người, là nơi tỏa sáng hào quang vì sự sang trọng, giàu có của nó. Cũng như Thạch Lam trong truyện ngắn Hai đứa trẻ đã từng nói đến tâm trạng của hai nhân vật nhỏ tuổi Liên và An cố thức khuya để đợi tàu đi qua, chỉ để nhìn ngắm ánh sáng lấp lánh và sự chuyển động ồn ào của nó. Hà Nội trong một số tác phẩm văn xuôi giai đoạn sau 1954 cũng được mô tả như vậy: là nơi rất lộng lẫy trong giấc mơ trẻ thơ; là nơi đông đúc, nhộn nhịp, sung sướng của nhiều người. Sự thanh lịch, duyên dáng của Hà Nội được tả trong các tác phẩm viết về Hà Nội như điều tất yếu và khiến cho những gì thuộc về Hà Nội cũng đều trở nên xinh đẹp: đẹp từ góc phố, hàng cây, bờ hồ, nhà cửa đến cả những hàng ăn và chùa chiền, miếu mạo; con người đẹp đến cả phong tục, giọng nói, cách ứng xử cũng đẹp…Sau Nguyễn Tuân kỳ khu với cái đẹp, cái độc đáo “vang bóng một thời”; sau Thạch Lam viết về “Hà Nội - 36 phố phường” và vườn nhà yên tĩnh, thơ mộng; Vũ Bằng và nhiều nhà văn khác của miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 vẫn tiếp tục nuôi cảm hứng về Hà Nội. Nhưng dường như trong những trang văn viết về Hà Nội, cảm hứng ngợi ca, yêu mến vẫn là chủ đạo. Nó che phủ hết hoặc có khi thủ tiêu luôn tư tưởng hay cảm hứng phê phán (nếu có) trong một số ít tác phẩm.
Ngoài cảnh đẹp và những đặc tính của một thành phố lớn, một thủ đô lâu đời; Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn trước 1975 còn được nhấn mạnh ở chiều sâu văn hóa và chiều dài lịch sử. Đó mới là nguyên nhân chính để Hà Nội tồn tại lâu bền nhất trong cảm xúc của người đọc. Thử hỏi ai đọc Thương nhớ mười hai, Món ngon Hà Nội của Vũ Bằng mà không rưng rưng; ai đọc Hoài cố nhân, Ngày xưa, Hà Vi của Võ Hồng mà không thấy mình cũng có chút liên hệ với nơi cội nguồn ấy. Cho dù ra đi không phải với tư cách “mang gươm đi mở cõi” thì con người trong các tác phẩm viết về Hà Nội vẫn có nỗi niềm “ngàn năm thương nhớ” đất Thăng Long. Viết về lịch sử giai đoạn này có thể khó, viết về văn hóa ẩm thực hay phong tục ngày Tết, lối sống của người Hà Nội cũng không phải vì để được dễ dàng phổ biến hơn. Ở đây chúng ta nhận thấy giữa các tác giả có sự đồng cảm chung trong nhận thức về văn hóa, trong cảm hứng sáng tác. Trong bối cảnh nhiều công trình khảo cứu về văn hóa dân tộc viết trước 1945 được in lại do nhu cầu người đọc; các công trình nghiên cứu mới của Toan Ánh, Nguyễn Hiến Lê, Kim Định…được đón nhận nhiệt tình; các bài viết tranh luận về văn hóa dân tộc hay “văn hóa – mạo hóa” của Lý Chánh Trung, của Vũ Hạnh, Lữ Phương… thường xuyên xuất hiện trên các báo, tạp chí; việc các nhà văn quan tâm đến văn hóa, quan sát sự vật, con người bằng cảm quan văn hóa hay mô tả Hà Nội với các đặc trưng văn hóa cũng là xu thế tất yếu. Đó cũng là biểu hiện chính của dòng văn chương yêu nước, hướng về cội nguồn dân tộc. Nhớ Hà Nội không phải vì nhớ món ăn; thương Hà Nội không phải vì Hà Nội có nhà cao cửa rộng, cảnh đẹp người sang; mà văn hóa chính là sự tổng hợp của tất cả, văn hóa do con người làm ra và được duy trì, tiếp nối bởi chính thái độ và cách ứng xử của con người. Sự thương nhớ nhiều khi rất chủ quan, thiên vị dành cho Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam còn vì tình yêu dành cho thủ đô của một nước thống nhất, tình yêu đối với dân tộc, với văn hóa Việt và tình yêu của những người con xa cách quê nhà.
Cảm hứng văn hóa và tình yêu Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam còn có thể lý giải bằng hiệu ứng của sự giao lưu và xung đột về văn hóa. Sau 1954, khi những người Bắc di cư vào Nam họ mang theo phong tục, tập quán, cách ứng xử của văn hóa Bắc. Khi bà con gốc Bắc chung sống với đồng bào Nam Bộ trên đất phương Nam, dĩ nhiên sự giao lưu, va chạm về văn hóa là điều tất yếu. Ở đây, chúng tôi không cho rằng sự khác biệt về văn hóa sẽ tạo nên sự ngăn cách, xung đột mà nó chính là nguyên nhân tạo nên nhu cầu nhận thức về văn hóa, nhu cầu bảo lưu các giá trị tinh thần. Người Hà Nội cũng như người Bắc, người Nam nói chung bỗng nhận ra một vấn đề cũ mà mới trong cuộc sống thường ngày, đó là đặc trưng văn hóa hay là nét thú vị rất riêng của mỗi vùng miền, về văn hóa dân tộc, văn hóa truyền thống. Vấn đề này càng được quan tâm nhiều hơn khi nửa triệu lính Mỹ xuất hiện ở miền Nam vào thập niên 60 của thế kỷ trước. Sự xung đột căng thẳng của văn hóa Đông – Tây trong điều kiện chiến tranh khốc liệt càng làm cho tâm trạng hướng về cội nguồn da diết, mãnh liệt hơn. Hà Nội không chỉ là một vùng đất, một thành phố; trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn trước 1975, Hà Nội là một địa chỉ đỏ thể hiện khá rõ tình trạng phát triển văn chương trên một đất nước bị chia cắt và vấn đề cảm hứng sáng tạo của các nhà văn. Trong cảm hứng viết của nhiều người, vai trò của ký ức văn hóa và ý thức lưu giữ, giới thiệu các đặc trưng văn hóa có ý nghĩa quan trọng. Đây cũng là điểm giống nhau hay là sự tiếp nối giữa giai đoạn văn học trước 1975 với tình hình sáng tác của người Việt ở hải ngoại sau 1975. Trong áp lực của nỗi nhớ quê hương, đất nước tha thiết; sự khác biệt giữa hai môi trường sống, sự xung đột giữa nền tảng văn hóa dân tộc (mà nhà văn đã tiếp nhận và có sẵn) với nền văn hóa của đất nước đang sống; một số lớn người viết có xu hướng lấy ký ức văn hóa làm nguồn cảm hứng cho các sáng tác của mình. Nhiều truyện và tiểu thuyết tiếng Việt ra đời ở nước ngoài được xem như những dòng hoài niệm về quê hương, xứ sở.
5. Xét về đặc trưng ngôn ngữ; việc mô tả, phản ánh hình ảnh Hà Nội trong các tác phẩm văn xuôi thể hiện sự đa dạng về giọng điệu của văn chương. Nếu như trước 1945, giọng Bắc nói chung và giọng Hà Nội nói riêng chiếm lĩnh văn đàn, thì sau 1954, ở miền Nam, giọng điệu Nam Bộ có phần nổi trội: giọng Nam thuần phác, mộc mạc trong các tác phẩm của Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc… thú vị, duyên dáng hơn nhiều so với thời Hồ Biểu Chánh trước đó. Trong khi đó, Mai Thảo viết các đoản văn, tùy bút bằng một giọng Hà Nội hoa mỹ, đài các và uyển chuyển, réo rắt; Tạ Tỵ, Y Uyên, Viên Linh, Nhật Tiến, Lê Tất Điều và nhiều nhà văn khác cũng thể hiện giọng Bắc; còn ngôn ngữ trong văn Vũ Bằng linh hoạt hơn, vẫn là giọng Hà Nội từ cách dùng từ đến âm điệu, nhưng có vẻ như nhà văn đang tiến gần đến loại văn khẩu ngữ (đối thoại hóa) của văn xuôi Nam Bộ.
Xét về đặc trưng thể loại, phần lớn các tác phẩm có đề cập đến hình ảnh Hà Nội thường gần với các thể văn như hồi ký, tùy bút hay cũng có thể là sự pha trộn của truyện, tiểu thuyết với hồi ký, ký sự. Những gợi nhớ, liên tưởng, so sánh thường xuyên trong văn Võ Hồng là cách thể hiện hiện thực lịch sử, quê hương, đất nước qua dòng chảy thời gian. Võ Hồng viết về Hà Nội bởi chính ông đã có những năm tháng học ở Hà Nội và hồi ức về “ngày xưa” ấy vẫn còn sống động trong ông. Tùy bút của Vũ Bằng cũng khác với tùy bút của các nhà văn khác ở chỗ có sự tham gia của thể hồi ký, ký sự. Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng thường được gọi bằng những tên thể loại khác nhau như tùy bút, hồi ký hay ký sự trữ tình là vì vậy.
6. Tóm lại, viết về Hà Nội hay thể hiện hình ảnh Hà Nội trong tác phẩm là điều khá đặc biệt của văn xuôi miền Nam giai đoạn 1954 – 1975, vì tình trạng đất nước bị phân cách. Trong hơn hai mươi năm tồn tại, văn xuôi đô thị miền Nam đã có nhiều đổi mới, sáng tạo theo hướng hiện đại và phong phú với nhiều đề tài, nội dung khác nhau. Hà Nội là một đề tài, là một vùng hiện thực đem lại nhiều cảm hứng sáng tác cho nhà văn. Viết và kể về Hà Nội vừa là tình yêu đối với quê hương, cội nguồn; vừa thể hiện một quan niệm văn chương tưởng như hết sức xưa cũ, đó là coi tác phẩm như một con “thuyền” chuyên chở ký ức, tình cảm con người và cả tư tưởng, đạo đức, lập trường nữa!
------------------------------
Chú thích
(1) Nguyễn Hiến Lê, Hồi ký Nguyễn Hiến Lê; Nxb Văn học, Hà Nội, 1993, tr.361.
(2) Võ Phiến, Hai mươi năm văn học miền Nam 1954 – 1975, Văn Nghệ, California
(3)Viên Linh: “Thời niên thiếu của Thảo”; Tạp chí Văn số 227 ra ngày 25/6/1973.
(4) Triệu Xuân: Lời giới thiệu Tuyển tập Vũ Bằng, tập 1; Nxb Văn học, H, tr.5.
(5), (6) Vũ Bằng: Tuyển tập Vũ Bằng, sđd; tr. 26, tr. 82…
(7) Võ Hồng, Tuyển tập Võ Hồng; Sđd, tr.48.
(8) Võ Hồng, Tuyển tập Võ Hồng; Sđd, tr.116.
(9) Bình Nguyên Lộc, Tuyển tập Bình Nguyên Lộc; tập 1; Nxb Văn học, tr.347-442.