Những góc nhìn Văn hoá

Bản huyền ca về lịch sử khai sáng

Chúng ta đã có những trường ca hay tha thiết và sôi động về chiến tranh cách mạng, nhưng thiếu những trường ca suy tưởng trầm lắng về quá trình khai sáng của dân tộc Việt với những hành trình vượt qua khổ đau, bất hạnh, lầm lạc, tối tăm. Ngày đang mở sáng của Trần Anh Thái (NXB Hội nhà văn - 2007) không chỉ là bản huyền ca về thân phận cộng đồng trong dòng chảy khốc liệt của lịch sử khai sáng, mà còn là bản huyền ca cảm động ngợi ca những khao khát văn minh văn hoá hằng cháy đốt ngàn năm trong thẳm sâu tâm thức Việt. Bản  huyền ca là chuỗi tâm trạng đan xen, luân phiên phức hợp của những nỗi niềm Việt, cảm thức Việt, được tác giả kết tinh chắt lọc lại và thả bay trên bầu trời thi ca như một đàn đóm đóm phập phồng tối sáng, thoắt hy vọng, thoắt lo âu, thoắt hoan hỷ reo vui, thoắt thờ ơ, tuyệt vọng, hồ nghi.

Ngày đang mở sángcủa Trần Anh Thái là sự cảm nhận cá nhân tinh tế về sự vận động của ánh sáng văn minh văn hoá tràn qua bóng tối của thân phận cộng đồng, một thứ bóng tối bí ẩn và u uẩn trong đền thiêng, cõi lặng. Dòng ký ức về lịch sử cộng đồng. về dòng chảy của thân phận Việt luôn đan xen giữa ánh sáng và bóng tối, ánh sáng cứ mở dần ra về phía tương lai. Nghịch lý và kịch tính của ánh sáng và bóng tối, cá nhân và cộng đồng, đau khổ và siêu thoát, đời thực và tôn giáo, lịch sử và vĩnh hằng xuyên suốt chuỗi hình tượng trong bản huyền ca khiến cho những hình tượng thi ca của Trần Anh Thái trở nên biến ảo và quyến rũ, bang bạc cảnh quan của Sáng thế ký và đôi khi mang âm hưởng của Nhã ca.

Ký ức ngàn năm khép mở một vòng tròn

Trong trường ca Ngày đang mở sáng của Trần Anh Thái hình tượng con đường ám ảnh nhà thơ nhiều nhất: “con đường không tên”; “con đường ký ức”; “con đường kiệt sức”; “con đường đêm tối”; “con đường mất dấu”; con đường ẩn đầy bất trắc”; “con đường nhọc nhằn gai bụi”; “đường quành quèo dốc dựng” “máu khô đường mòn”; “nhớ con đường cũ” “những dấu chân tản mát trên đường””Mong manh con đường gai bụi” “Vô định con đường rêu”; “mù rối con đường”; “chán nản con đường”; “bất tận nẻo đường”; “con đường bắt đầu từ đâu?”; “con đường nào tổ tiên tôi đi?” “chiến tranh không có con đường thứ ba”; “Anh dìu em trên đường mưa đổ’; “những tảng đá già nua cũ kỹ chắn đường”; “tia nắng nung xối xả mặt đường” “Bấn loạn những bàn chân chen lấn tìm đường”…Trong hàng chục loại đường mà nhà thơ nhắc đếnhầu như không thấy có nẻo đường vui. Khi người ta dạt dào cảm hứng bay lên hay khoan khoái bước đi những bước chân nhệ lâng lâng, không mấy ai nhớ tới con đường nữa. Nhưng trong tập trường ca Ngày đang mở sáng mỗi bước chân trên đường là một bước nhà thơ phải ngẫm nghĩ, suy tưởng, phê phán và gắt gỏng với con đường để rồi ruốt cuộc phải thở dài “Không có đại lộ trần gian”. Ấy vậy mà nhà thơ lại tỏ ra phơi phới hân hoan hăm hở khi băng băng khai phá những con đường mới qua  những không gian chưa hề có dấu chân: “Băng qua cánh đồng hoa mào gà đỏ rực”;“Tôi mang theo dòng máu tổ tiên lội qua sình lầy tù đọng, ấu thơ vang lồng ngực phập phồng”;“Cầm tay em băng qua những ngọn đồi vực sâu gai bụi”; “Tôi băng qua cánh đồng vượt biển”; “nắm tay em cất bước băng qua lớp hàng rào”; “tôi chạy qua cánh đồng tới những dòng sông”…

Có thể nói, cảm hứng tìm kiếm con đường mới, đợi chờ ánh sáng mới , khát khao bầu trời mới xuyên suốt tập trường ca  Ngày đang mở sáng. Và chính tập trường ca là một con đường mới  do chính nhà thơ mang cảm hứng huyền ca băng qua những đầm lầy của ký ức cộng đồng để khai phá một lối đi tâm linh cho sự tái hiện lịch sử cộng đồng qua tâm trạng cá nhân. Đồng hành cũng thi nhân để giữ nhịp cho chuyến phiêu linh ấy là hai người đàn bà vĩnh cứu ở hai đầu ánh sáng – đó là bà mẹ Việt Nam gầy buồn trong cõi lặng và cô gái nhà thơ thầm yêu luôn tràn trề khát vọng, tung tăng trong hoa, trong nắng, trong mơ.

 Trần Anh Thái không chỉ nói về một kiếp người cụ thể, một cuộc chiến tranh cụ thể như trong các tập trường ca trước đây. Anh có một cách tiếp cận hoàn toàn mới, tiếp cận lịch sử cộng đồng, thân phận cộng đồng bằng cảm hứng huyền ca muốn bao quát xuyên thấu cả ngàn năm.“Gió ngàn năm trong suốt hát bên cây”,“Ký ức ngàn năm khép mở một vòng tròn”. Một nhà thơ mang cảm hứng sử thi muốn tái hiện lịch sử ngàn năm của cộng đồng mình hẳn sẽ bắt đầu trường ca từ buổi đầu dựng nước với bao nhiêu huyền tích kiểu voi chin gà  gà chin cựa ngựa chín hồng mao. Trần Anh Thái nhảy thẳng vào dòng ký ức ngàn năm từ cánh đồng quê hương cằn cỗi thời hiện đại với ngọn cỏ gà và đom đóm tuổi thơ :

Tôi hát bài ca người thợ cày nhảy lò cò bên lạch ruộng, chật vật trốn tìm nhọ nhem bùn đất đuổi theo đàn đom đóm

Lọ thuỷ tinh nâng niu trong trẻo bầu trời

Tinh sương rộ lên dàn đồng ca sáng mới

(Khúc I, đoạn 2)

Có thể nói đoạn thơ trên ẩn chứa cái mã số thi pháp trường ca của Trần Anh Thái. Anh đã mang tâm thế của người nông dân ngàn đời, nhảy lò cò qua các chặng thời gian và các sự kiện để đuổi theo đàn đom đóm ký ức lập loè trong tâm thức, cố bắt lấy chúng nhốt vào trong lọ thuỷ tinh trong suốt của một thứ thơ mang tinh thần thiên khải tôn giáo, làm rộ lên dàn đồng ca sáng mới từ những âm vang sâu thẳm trong tâm linh.

Mỗi khúc, mỗi đoạn của trường ca Ngày đang mở sáng là một cột mốc của đường đời, của lịch sử ẩn hiện thấp thoáng trong ký ức nhà thơ. Những ký ức lửng lơ trong tâm tưởng phi thời gian như những con đom đóm lập loè trên bầu trời vĩnh cửu. Những hình tượng cụ thể đầy chất thơ gắn với số phận riêng và kỷ niệm riêng của nhà thơ nhưng thấm đẫm tinh thần văn hoá và thân phận cộng đồng. Những đoá mào gà đỏ rực, những bông hoa xuyến chi trắng muốt, những con thuyền trên cỏ, những chiếc bình gốm cũ gió thổi tu tu, những ngôi đền thiêng trên núi, những bầy quạ đêm hốt hoảng,  những ban thờ nguội ngắt, những bóng người dìu nhau bết máu và những nấm mồ đắp vội ngàn ngàn mưa nắng…Tất cả những hình ảnh thi vị hay ghê rợn đó đều gắn liền với ký ức cá nhân của nhà thơ, nhưng đều như bập bềnh trôi trên dòng ký ức cộng đồng ngàn năm thăm thẳm, như trồi lên từ đáy thẳm hư vô tạo nên một cảnh quan thi ca đầy ấn tượng, những không gian rộng lớn, những cõi phi thời gian, phi lịch sử và vô địa chỉ rất khoáng đạt, xa xăm đầy tinh thần tôn giáo, tâm linh. Không gian trong bản trường ca của Trần Anh Thái là không gian siêu thực và ấn tượng như trong tranh của Đa-ly, với những cảnh quan tôn giáo vừa kỳ bí, thâm u, vừa hùng vĩ và rực rỡ. Con người hiện ra giữa không gian của ngàn năm lịch sử gợi lên những cảm xúc hoà trộn giữa thân phận cụ thể và biểu tượng siêu thăng.

Ngày đang mở sángkhông chỉ mang  cái rực rỡ của những cảnh quan tôn giáo, mà còn thấm nhuần cái cao cả siêu thoát của những nỗi đau tôn giáo - siêu thoát những vẫn còn vương chút ngậm ngùi, xót xa, u uẩn và bối rối của những nỗi đau trần thế. Nhiều câu thơ đoạn thơ xuất thần như những lời thì thầm từ vô thức chất chứa bao đớn đau run rẩy thành kính và ngưỡng mộ trong thẳm sâu tâm thức nhà thơ. Mỗi đoạn thơ là một ánh chớp của ký ức trên bầu trời thi ca đầy tinh thần tôn giáo làm hiện lên những mảng ký ức tươi sáng, lung linh, huyền ảo về tình yêu, tình mẹ, tình đời giống như những vạt hoa bèo rực sáng lên trên dòng sông tâm thức thăm thẳm bóng đêm. Thi pháp đom đóm ấn tượng trong ký ức ẩn hiện, lập loè sáng tối đan xen giữa những ký ức đen tối và những ký ức thi vị, lung linh, giữa máu và hoa, giữa cái chết và tinh yêu, giữa khổ đau, hy vọng và khát vọng. Thân phận con người bàng bạc trong ký ức với chút e ấp ngại ngần của tình yêu, chút run rẩy thành kính của con chiên,  chút tái tê se buốt của những nỗi lo âu  vô cớ và những băn khoăn day dứt về số phận cộng đồng ở những thời khắc đen tối, khi ngày chưa “mở sáng”.

Trong thế giới thi ca đầy bóng tối, khổ đau và nghịch  lý ấy luôn rực lến sức sống của tình yêu và hy vọng. Có thể nói, Ngày đang mở sáng là một bản trường ca thấm đẫm tinh thần lạc quan triết học. Bóng tối còn tiếp tục tồn tại giữa ban ngày, nhưng đó là bóng tối tạm bợ và sẽ bị xua tan. Ánh sáng luôn tiếp tục mở ra. Ngày đang mở sáng cũng có nghĩa là có một lịch sử khai sáng thứ hai  sau khi xua đi bóng đêm đen để bước sang ngày mới. Giống như người hoạ sỹ sử dụng nền đen để làm bật lên những gam màu sáng, Trần Anh Thái cũng sử dụng cái nền bóng tối bi thương để làm bật lên thứ ánh sáng chói gắt của tình yêu, tình người và sức sống Việt Nam.

Trong một cái nhìn tôn giáo siêu thoát với những cảnh quan phi thời gian, phi lịch sử thì mọi sự phân biệt bận thù, sống chết, người này kẻt khác bị nhoà đi

Đất đồi phơi xác bạn xác thù

Tiếng chim dại lửng lơ sườn núi

(Khúc IV,trang 50)

Cái lửng lơ của tiếng chim không chỉ là cái lửng lơ của một âm thanh cụ thể, mà còn mang chứa cái lửng lơ mỹ học của những hình tượng tôn giáo vượt thoát, siêu thoát khỏi những toạ độ rạch ròi, những góc nhìn thiên kiến để gia nhập vào cảnh quan vĩnh cửu của những hình tượng thi ca khái quát cao, thấm đẫm tinh thần suy tưởng tôn giáo và lung linh ánh sáng khải huyền:

Mặt trời lấp mặt

Xác quân thù xác bạn gục vào nhau

 (Khúc IV, trang 54)

Những đoạn thơ về cảnh chiến trường trong trường ca Ngày đang mở sáng gợi nhớ những câu kinh Vệ Đà: “Chiều xuống sau cuộc chiến đấu, những đàn bướm muôn màu ngàn sắc đậu lên cả xác những người tử trận và  những người chiến thắng đang ngủ”. Không phải là cái nhìn mơ hồ ảo tưởng về một chủ nghĩa nhân đạo chung chung nào đó như người ta vẫn hay lên án trước đây, mà là cái nhìn toàn khối siêu thoát, nhìn thế gian và lịch sử bằng con mắt của của loài chim. Từ điểm nhìn của vũ trụ và vĩnh cửu nhìn xuống nhân gian nhà thơ thấy cái bi thảm của cõi người, của chiến tranh hiện lên thật rõ nét như cảnh tượng trong tranh Gecnica của Picasso:

Bóng người dìu nhau bết máu. Màn đếm lặng phắc bãi chiến trường, gió khô mặt đất…Những xác chết ngổn ngang hình hài méo mó. Từng dúm xương chắp vá vô tình đêm tối mò tìm…”

(Khúc X, trang 99)

Kẻ thất trận dưới chân đồi lê bước

Kéo hoàng hôn rã rời

Kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc

Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau

Nhập nhoạng người

Nhập nhoạng trắng

Những than hình bó trắng

Xác chết chồng xác xết đợi ngày

(Khúc IV, trang 54)

Đây không phải là cái nhìn ăn năn của những cựu chiến binh sau cuộc chiến, cũng không phải là đợt khuyến mại thi ca hào phóng trong phiên chợ toàn cầu hoá, mà là sự trưởng thành của cảm xúc thi ca theo hướng nhân bản, nhân văn. Nhà thơ không chút mơ hồ về sứ mệnh của người lính trong chiến tranh, anh ta hiểu rằng “Chiến tranh không có con đường thứ ba”. Nghĩa là , muốn sống phải tiêu diệt kẻ thù, dù sau đó có thể lại thắp hương cho kẻ mình bắn chết. Những câu thơ day dứt cảm thương cho thân phận những người lính bên kia chiến tuyến thể hiện một cái nhìn nhân bản nằm trong cảm hứng chung về than phận cộng đồng.

Ánh sáng nâng niu qua nỗi khổ đau

Cũng là những than phận phụ nữ, nhưng nếu người mẹ trong Ngày đang mở sáng là biểu tượng của sự hy sinh và chịu đựng, mang cái u buồn hiu hắt và lạnh lẽo của chiến tranh sống âm thầm trong “cõi lặng”, thì hình ảnh người yêu luôn là biểu tượng của niềm tin và khát vọng, luôn  đẫm mùi hương, ánh sáng của hoà bình:

Nắng thả khẽ ánh vàng sương mờ

Ngước sáng giọt sương lung linh

Mặt đất làn hương mỏng

Vẳng rất xa tiếng sóng…

Ai đang đi nhẹ vào sương

Gió xoa dịu trên gương mặt sớm

Phưng phức hoa mào gà

Ban mai bừng thức

(Khúc V, trang 60)

Thứ ánh sáng ấy, mùi hương ấy là một chiều kích khác tươi sáng hơn của những  phận người, gắn liền với ánh sáng và hy vọng, dù đó chỉ là chút e ấp xa xôi của hạnh phúc trong giây phút đầu tiên vừa kết thúc chiến tranh:

Chiến tranh đi qua

Tôi nghe xa xôi

Tiếng hát êm

Bay mơ hồ trên sóng

Mơ hồ mắt em

Mơ hồ thả tóc

Những vì sao chầm chậm lăn vào mặt biển

Hơi thở em ấm áp phả trên gương mặt rạng ngời

(Khúc V, trang 62)

Trong chuỗi ký ức tràn ngập bóng tối của thân phận cộng đồng, những ký ức tình yêu luôn cụ thể, thi vị và rực sáng, luôn khoẻ khoắn và trần đầy hy vọng. Những ký ức tươi sáng ấy hiện lên một cách tự nhiên trong dòng chảy miên man vô định của cảm hứng huyền ca. Người con gái trong chuỗi ký ức tình yêu của Trần Anh Thái dù cụ thể đến từng ánh mắt, từng mái tóc, mang khát vọng đời thường, mang sức sống, sức hy vọng của con người Việt Nam vẫn là những hình tượng nửa người nửa thánh luôn hiện ra trong sứ mệnh nuôi nấng niềm vui, hy vọng và ánh sáng trong một cõi thiêng. Người con gái ấy hiện ra trong bản trường ca như những người “mở sáng”,“ Tắm trong ánh nắng muôn màu”, “Ủ ban mai vào đêm vắng”. Cũng có lúc cô như “những vì sao thanh thản sáng”, như“tia chớp nhói lên cùng tận”, như ng cuối  cù ng bao giờ  hình ảnh cô  cũng gắn liền với những bầu trời lộng nắng:“Em áo mỏng nắng ngập ngừng mái tóc” “Nắng mới chói loà những cuống lá run rơi”; “Mắt em sáng vòm trời”;”Tôi tựa vào nỗi buồn em khắc khoải - Thấy ánh sáng rực lên ở phía cuối rừng”…

Cái khát vọng trong tình yêu vẫn vượt qua khát vọng về gia đình và những ham muốn nhục thể để hướng tới những nhu cầu cao cả nhuốm màu sắc tôn giáo và vĩnh cửu. Đôi lứa dìu nhau đi trong một không gian tượng trưng, đi đến miền ánh sáng:

Muộn quá rồi

Anh dìu em trên đường mưa đổ

Em hãy vịn lên vai anh mà bước

Sắp tới nhà

Tia chớp nhói lên cùng tận

Nhưng ở cuối làng

Ánh sáng hắt ra ấm áp…

Ánh sáng nâng niu qua nỗi khổ đau

Dù hình tượng cô gái người yêu ở cuối tập trường ca nhuốm chút màu bi đát, nhưng cảm hứng chung xuyên suốt hình tượng ấy vẫn là niềm lạc quan bất tận, niềm hy vọng khôn nguôi trong tâm thức con người Việt Nam, những người đang mở sáng.

Ngày đang mở sánglà một tạp trường ca nhân văn, lạc quan và đổi mới. Tuy còn một số đoạn quá cụ thể, bật khỏi không khí huyền ca tinh chất xuyên suốt tập trường ca, Ngày đang mở sáng vẫn là một thành công đáng kể của Trần Anh Thái, với những đổi mới tìm tòi về cảm hứng và thi pháp, đóng góp vào nền thơ đương đại Việt Nam. Trần Anh Thái đã tích hợp được những thành quả của một số nhà thơ đổi mới về thi pháp, nhập vào thần thái của một số giọng thơ mới lạ, nên những trau truốt tu từ ngôn ngữ cầu kỳ, những liên tưởng táo bạo và phóng khoáng không gây cảm giác gò ép, uốn vặn hay vay mượn, mà nhuần nhuyễn hồn nhiên như bật ra từ gan ruột của nhà thơ./.

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114576792

Hôm nay

2290

Hôm qua

2306

Tuần này

22105

Tháng này

223849

Tháng qua

130677

Tất cả

114576792