Những góc nhìn Văn hoá

76 năm Toàn quốc kháng chiến: Giá trị của lời hiệu triệu với việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Bút tích " lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" (Ảnh tư liệu)

Bảy mươi sáu năm đã trôi qua, sự kiện toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) đã đi vào lịch sử, nhưng tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lịch sử của những năm tháng hào hùng đó vẫn in đậm trong tâm trí mỗi người Việt Nam. Khí thế của những ngày toàn quốc kháng chiến như vẫn đang còn vang vọng, luôn nhắc nhở tiếp thêm sức mạnh cho Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc trong vấn đề xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Cách đây 76 năm, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc, thị xã Hà Đông (nay là quận Hà Đông, thành phố Hà Nội), dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã quyết định phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày 19-12-1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã được phát đi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm đầy gian lao, anh dũng cuối cùng đã kết thúc với chiến thắng thuộc về Nhân dân ta. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng về sự toàn thắng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Nghiên cứu Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ thấy nhiều quan điểm cơ bản, cốt lõi của Người về chiến tranh nhân dân Việt Nam, trong đó quan điểm xuyên suốt và nhất quán là phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vào cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Tư tưởng về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, trên thực tế đã trở thành nguyên tắc chiến lược quan trọng chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những thành công về việc xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước đã để lại cho chúng ta những bài học cần phát huy trong điều kiện lịch sử mới của đất nước, đó là:

Một là, muốn tạo được sức mạnh toàn dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc, trước hết phải xác định đúng kẻ thù cụ thể, trước mắt.

Điều này đòi hỏi trước hết phải có lập trường giai cấp vững vàng, nhãn quan chính trị sâu sắc, nhạy bén. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ kẻ thù là thực dân Pháp. Thời kỳ 1945 - 1946, việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hết sức phức tạp. Tình hình lúc đó thay đổi từng ngày, từng giờ. Cùng lúc cách mạng nước ta phải đối phó với nhiều kẻ thù, nhưng Đảng đã đánh giá và xác định đúng kẻ thù chính để có sách lược và phương pháp đấu tranh phù hợp. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất, không chỉ của dân tộc ta mà của cả loài người tiến bộ là đế quốc Mỹ, nên đã hình thành được ba tầng mặt trận: ở trong nước, ở Đông Dương và trên thế giới, tạo ra sức mạnh chiến thắng đế quốc Mỹ. Đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào Đảng, chế độ bị giảm sút”[1]. Đây vừa là “nguy cơ, thách thức”, vừa là “kẻ thù” cụ thể trước mắt trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Hai là, nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm, lập trường giai cấp công nhân

Trong kháng chiến chống Pháp, quá trình xây dựng khối đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã xác định rõ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, vai trò nòng cốt của liên minh công nông, vai trò quan trọng của tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và ra sức tập hợp đông đảo lực lượng về phía cách mạng, đồng thời đánh giá cao truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân. Đảng đã lôi cuốn giai cấp tư sản dân tộc, một bộ phận hoặc từng cá nhân xuất thân từ giai cấp phong kiến, địa chủ có tinh thần yêu nước tham gia giải phóng dân tộc. Trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện nay, kinh nghiệm này đã được Đảng tiếp tục phát huy. Đại hội XI của Đảng nêu rõ: Đoàn kết toàn dân tộc… là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[2]. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của Nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[3]. Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII đã tiếp tục khẳng định đây là một quan điểm, chủ trương lớn cần được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nỗ lực củng cố, tăng cường trong chặng đường tiếp theo của cách mạng nước ta. Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”[4].

Ba là, bảo đảm sự thống nhất hài hòa lợi ích dân tộc và quyền lợi các giai cấp, tầng lớp nhân dân.

Thực tiễn cách mạng nước ta cho thấy sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc phụ thuộc vào việc nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và tập thể, giai cấp, tầng lớp và quốc gia dân tộc. Để tập hợp được các giai cấp, tầng lớp vào Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng phải chỉ rõ những mục tiêu chung mà tất cả các thành viên Mặt trận đều chấp nhận được. Thời kỳ 1936 - 1939, Đảng nêu mục tiêu đấu tranh đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh; trong thời kỳ 1939 - 1945 là đấu tranh chống Nhật, Pháp giành độc lập dân tộc và trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là chiến đấu để bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Kinh nghiệm cũng cho thấy phải luôn tìm kiếm, phát huy những yếu tố tương đồng, thống nhất để giải quyết các yếu tố khác biệt, mâu thuẫn. Cần chú ý đến lợi ích cụ thể song rất quan tâm đến lợi ích chung, nhất là đối với công cuộc bảo vệ Tổ quốc thì càng phải đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết, xóa bỏ mọi thành kiến, định kiến hẹp hòi. Đại hội XII của Đảng khẳng định: “lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích của quốc gia - dân tộc; …Đại đoàn kết dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng thành quả của công cuộc đổi mới”[5]. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân và Tổ quốc.

Vận dụng những bài học lịch sử xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo tinh thần của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay cần nắm vững những nội dung sau:

Một là, thường xuyên giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Theo đó cần tăng cường chức năng tham mưu của Mặt trận, nắm chắc tình hình mọi mặt của các giai cấp, tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc, các cá nhân chuẩn bị tốt các yếu tố để Đảng ra Nghị quyết lãnh đạo đúng đắn, kịp thời và triển khai thực hiện Nghị quyết bằng các kế hoạch, quy định hướng dẫn cụ thể, đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng. Tổ chức thực hiện có hiệu quả cao nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa khóa XIII về “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ”. Nâng cao ý thức trách nhiệm của tổ chức Đảng và mỗi đảng viên trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình, đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, củng cố sự đoàn kết nhất trí trong Đảng.

Hai là, tiếp tục củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để bảo vệ thành công Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hiện nay phải “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[6]. Nhà nước tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp, đảm bảo bình đẳng và công bằng xã hội. Mở rộng dân chủ đi liền với việc tăng cường trật tự, kỷ cương, sống và làm việc theo pháp luật. Bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Không ngừng chăm lo xây dựng sự đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong Mặt trận, xây dựng sự đồng thuận xã hội.

Ba là, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội XI khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”[7]. Dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng với nội dung “bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra các quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận đến tranh luận, giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân. Để bảo vệ Tổ quốc thắng lợi trong tình hình hiện nay, cần phải giữ vững bản chất của của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Phát huy quyền làm chủ trực tiếp của Nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là cơ sở để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt “Quy chế dân chủ cơ sở”, cụ thể hóa và thực hiện tốt phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong tất cả các loại hình tổ chức, khắc phục mọi biểu hiện vi phạm dân chủ, coi nhẹ dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Quy định về giám sát đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và các quy định, quy chế khác.

Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.

Bốn là, đẩy mạnh công tác giáo dục, vận động quần chúng, quán triệt quan điểm dân là gốc. Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, điều quan trọng là phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục vận động… với những nội dung, hình thức thích hợp, vừa đáp ứng những quyền lợi cơ bản chung, vừa đáp ứng những nguyện vọng và lợi ích riêng phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp dân tộc trong công đồng dân tộc Việt Nam. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống yêu nước, trách nhiệm công dân, đạo đức xã hội, giáo dục ý thức chăm lo xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong Nhân dân. Với giai cấp công nhân phải chú ý nhấn mạnh bản chất giai cấp, tính tiên phong, vai trò trách nhiệm lãnh đạo cách mạng, sự cần thiết phải vươn lên đảm đương vai trò tiên phong, nêu gương sáng cho toàn xã hội. Với giai cấp nông dân phải chú ý đến vấn đề ruộng đất, khát vọng làm chủ, tình làng nghĩa xóm. Với tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, cần nhấn mạnh chủ trương tôn trọng tự do sáng tạo, vai trò ngày càng quan trọng của tri thức, trí tuệ đồng thời đề cao trách nhiệm công dân. Với đồng bào dân tộc thiểu số, cần phải giáo dục ý thức bình đẳng, xóa bỏ thành kiến dân tộc, loại bỏ các hủ tục, giữ gìn bản sắc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần để tiến kịp đồng bào miền xuôi. Với cộng đồng tôn giáo, nêu cao chủ trương tự do tín ngưỡng, những giá trị nhân bản trong các giáo lý gốc. Đấu tranh chống lại những phần tử đội lốt tôn giáo chống lại chính quyền, chống lại sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Công tác tuyên truyền, giáo dục vận động quần chúng, phương pháp tổ chức khối đại đoàn kết là hình thức cụ thể nhằm mở rộng đến mức cao nhất, tập hợp một cách rộng rãi nhất trận tuyến cách mạng, thu hẹp tối đa trận tuyến thù địch.

Phát huy tinh thần Toàn quốc kháng chiến trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần phải khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh của hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam. Làm cho các tầng lớp nhân dân, không phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo… tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp khó dự báo, trong khi đó “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn”[8]. Tuy nhiên, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử dưới sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là thành tựu của hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã thế và lực, thời cơ và vận hội mới cho đất nước."Đất nước ta chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay". Đây là niềm tự hào, là động lực, là nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bước qua mọi khó khăn, thử thách, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tăng cường góp phần phát triển nhanh và bền vững đất nước.

 


[1] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr.68.

[2] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 48.

[3] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 158.

[4] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2021, tập 1, tr.110.

[5] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 158 - 159.

[6] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 158 - 159.

[7] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 48 - 159.

[8] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, H. 2021, t.I, tr.108.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114441683

Hôm nay

283

Hôm qua

2317

Tuần này

21587

Tháng này

216857

Tháng qua

112676

Tất cả

114441683